nhận một khoản lương hưu hậu hĩnh từ chính phủ. Nhiều người già là đối
tượng của chương trình và đang sống cùng với con cháu, nên tiền được chia
cho các thành viên trong nhà. Nhưng chỉ khi người bà sống cùng với cháu
gái thì đứa cháu mới được hưởng lợi: Những bé gái đó thường ít bị suy dinh
dưỡng thể còi cọc. Còn lương hưu cho người ông không hề có tác dụng như
vậy. Ngoài ra, tác động kể trên chỉ thể hiện nếu người nhận được lương hưu
là bà ngoại của đứa trẻ.
Với những bằng chứng trên đây sẽ không ít người cho rằng đàn ông quá ích
kỷ so với phụ nữ. Nhưng cũng có thể nguyên nhân là do chuẩn mực và kỳ
vọng xã hội tác động đến việc ra quyết định trong gia đình. Dường như luôn
có áp lực vô hình buộc phụ nữ phải lo toan cho gia đình khi nhận được tiền
từ trên trời rơi xuống. Không ai mong chờ điều đó từ đàn ông. Nếu đúng đây
là nguyên nhân thì không chỉ chuyện ai có tiền mà có bằng cách nào cũng
rất quan trọng. Có thể phụ nữ cảm thấy tiền kiếm được bằng mồ hôi nước
mắt không cần phải “dành hết cho” gia đình hay con cái. Nghịch lý là nhờ
dựa vào vai trò truyền thống của phụ nữ trong gia đình mà các chính sách
công thu được ít nhiều kết quả tích cực bằng cách trao quyền cho phụ nữ.
Bây giờ chúng ta cùng quay trở lại với câu hỏi liệu người nghèo có thực sự
muốn gia đình đông con. Ông Pak Sudarno muốn sinh chín đứa con. Gia
đình đông đúc của ông không phải là hệ quả của việc thiếu kiểm soát, thiếu
các biện pháp ngừa thai hay do áp lực xã hội (mặc dù nguyên nhân khiến
ông đi đến quyết định này có thể ít nhiều liên quan đến chuẩn mực xã hội;
vợ ông không chia sẻ liệu bà có muốn nhiều con như vậy hay không).
Nhưng đồng thời ông lại tin rằng vì đông con mà gia đình ông rơi vào tình
trạng nghèo đói. Vậy có lẽ ông thực sự không “muốn” có nhiều con đến thế.
Ông muốn sinh chín đứa con chỉ vì không còn cách nào khác đảm bảo sẽ có
ít nhất một đứa sau này chăm sóc ông. Trong hoàn cảnh lý tưởng, hẳn ông
đã sinh ít con hơn và cố gắng nuôi dạy chúng đàng hoàng hơn nếu không
phải phụ thuộc vào con cái lúc về già.