6 và 7, họ ít được tiếp cận với các hình thức bảo hiểm chính thức, hệ thống
ngân hàng cũng như những nguồn tài chính không đắt đỏ khác. Với những ai
không thể vay mượn từ bạn bè hay gia đình, nguồn tài chính chủ yếu không
ràng buộc đến từ những người cho vay nặng lãi (tín dụng thương mại là một
ví dụ của tài chính ràng buộc vì nó bị ràng buộc cho một khoản mua sắm
nhất định, nên không thể dùng để chi lương) với lãi suất từ 4%/tháng trở lên.
Kết quả là người nghèo ít có khả năng đầu tư để hoạt động kinh doanh một
cách đúng nghĩa. Họ cũng dễ bị tổn thương bởi rủi ro phát sinh từ chính
ngành nghề kinh doanh. Nỗ lực khởi nghiệp như bao người bất chấp hoàn
cảnh khó khăn chính là biểu hiện của tinh thần dám nghĩ dám làm trong kinh
doanh của người nghèo.
Người nghèo vẫn xoay xở kiếm được tiền trả nợ dù phải trả lãi vay rất cao
(họ rất hiếm khi rơi vào tình trạng vỡ nợ). Điều này hẳn có nghĩa với mỗi
đồng rupi mà họ đầu tư, họ phải thu về được nhiều tiền hơn. Nếu không, họ
chẳng việc gì phải đi vay. Điều này ngầm khẳng định rằng tỉ suất sinh lời
của đầu tư tiền mặt vào công việc kinh doanh của người nghèo ở mức cao
đáng kể. Lãi vay của nhiều người trong số họ ở vào khoảng 50%/năm, thậm
chí còn nhiều hơn tiền lời thu được nếu đầu tư theo chỉ số cổ phiếu Dow
Jones.
Dĩ nhiên không phải ai cũng đi vay. Chỉ một số ít những người kinh doanh
thu được suất sinh lời cao mới dám vay mượn, những người khác có tỉ suất
sinh lời rất thấp. Tuy nhiên, một dự án thực hiện tại Sri Lanka đã cho thấy
điều ngược lại. Người ta mời một số người kinh doanh nhỏ lẻ chẳng hạn như
chủ cửa hàng bán lẻ, cửa hàng sửa chữa, tiệm làm ren, v.v... đến tham gia
một chương trình xổ số. Người thắng cuộc (2/3 số người tham gia) được trợ
cấp kinh doanh 10,000 rupi (khoảng 250 đô la Mỹ) hoặc 20,000 rupi
(khoảng 500 đô la Mỹ).
Khoản trợ cấp chẳng đáng là bao nếu so sánh theo chuẩn toàn cầu, nhưng lại
khá đáng kể với những người chủ kinh doanh nhỏ lẻ này. Với nhiều người
trong số họ, 250 đô la Mỹ là toàn bộ vốn liếng có được. Những người trúng