Người nghèo kinh doanh kém hiệu quả. Thực tế này giải thích tại sao tín
dụng vi mô không thực sự thay da đổi thịt cuộc sống của người vay như đã
đề cập trong Chương 7 (thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên tiến hành cho
chương trình Spandana). Nếu kinh doanh không sinh lời thì có cấp vốn kinh
doanh đi chăng nữa cũng không thể cải thiện đáng kể phúc lợi cho người
nghèo.
Biên và bình quân
Khoan đã. Chẳng phải câu chuyện của chúng ta bắt đầu từ cơ sở rằng lợi
nhuận đầu tư của những cơ sở kinh doanh nhỏ bé này ở vào mức rất cao hay
sao?
Điểm không rõ ràng ở đây là người ta có thể hiểu lợi nhuận theo hai cách
khác nhau. Đối với mỗi hoạt động kinh doanh, các nhà kinh tế học (lần đầu
tiên có vẻ được việc) phân biệt thành lợi nhuận biên trên một đồng đô la đầu
tư và lợi nhuận gộp. Lợi nhuận biên trả lời cho câu hỏi; “Nếu đầu tư thêm
hay bớt một đô la thì có ảnh hưởng gì đến doanh thu ròng sau khi trừ bao
gồm tất cả chi phí hoạt động (không kể chi phí lãi vay)?” Lợi nhuận biên là
yếu tố cần xét đến khi cân nhắc cắt giảm (hay gia tăng) đầu tư. Trường hợp
giảm đầu tư một đô la có thể giảm vay nợ một đô la, theo đó giảm 4 xu trả
nợ cả gốc lẫn lãi thì người ta sẽ giảm đầu tư khi lợi nhuận biên thấp hơn 4%,
và ngược lại. Vậy nếu vay nợ với lãi suất 4%/tháng thì ít nhất lợi nhuận biên
phải đạt 4%/tháng. Trong thực nghiệm tại Sri Lanka, người nghèo vay nợ và
trả được nợ, cũng như thu được lợi nhuận cao ngất ngưởng nhờ vào 250 đô
la Mỹ được trợ cấp tăng thêm, chứng tỏ hoạt động kinh doanh của người
nghèo có lợi nhuận biên cao. Do vậy, cũng đáng dang tay giúp đỡ họ dù chỉ
là một chút.
Mặt khác, lợi nhuận gộp là doanh thu ròng sau khi trừ mọi chi phí hoạt động
(chi phí vật liệu, lương trả cho công nhân, v.v...). Đây là số tiền cuối ngày có
thể mang về nhà. Ta nhìn vào lợi nhuận gộp để quyết định liệu có nên tiếp
tục kinh doanh hay không. Nếu lợi nhuận gộp không đủ bù đắp thời gian bỏ
ra cho công việc kinh doanh cộng với công sức tiền của đầu tư ban đầu, và