thể cân lường được, đến nỗi toàn bộ chỉ huy trở nên rõ ràng trong chính lúc
trận chiến đang diễn tiến.
"Nhưng tình hình đã sáng tỏ, bằng chứng là trong lúc chúng ta tiến
quân vào vùng đất lạ đen tối là đất Nga, chúng ta đã phải dùng những biện
pháp không những nhằm gia tăng lực lượng quân số mà còn nhằm cải thiện
chiến cụ, nhờ đó chúng ta có thể sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh toàn
diện là điều chúng ta đã không thể đạt được, nếu chúng ta không bị hoàn
cảnh thúc bách. Người ta không thể không run sợ khi nghĩ tới điều sẽ xảy tới
cho chúng ta, nếu trước mối nguy hiểm chúng ta đã chọn thái độ chờ xem.
Sớm muộn gì chúng ta cũng bị bất ngờ.
"Tuy trong năm 1941 cũng nhu trong năm 1942 chúng ta đã không
thành công trong việc bẻ gãy lực lượng chiến đấu của địch và bắt Nga phải
khuất phục, nhưng chúng ta đã có thể có quyền coi sự đẩy lui cộng sản ra xa
bờ cõi là một kết quả cụ thể ".
Nhưng năm 1943 là năm nhiều thất bại và đe dọa chồng chất mà diễn
giả không thể phủ nhận. Tuy việc phê bình sự lãnh đạo chiến tranh của
Hitler hiển nhiên không thể có, nhưng Jodl cũng để cho người ta thoáng thấy
những lỗi lầm đã phạm.
"Sau những thất bại đầu vào mùa đông, năm 1941 tại mặt trận Miền
Đông và tại Bắc Phi, Đức Quốc và đồng minh của Đức đã tập hợp các lực
lượng của mình lại để đánh Nga trong một trận xung phong mới và để lấy
của quân Anh những căn cứ ở miền Tây Địa trung hải. Những trận lớn ở
Caucase và vùng châu thổ sông Nil đã thất bại vì không đủ quân và vì thiếu
khí cụ thích hợp. Lần đầu tiên đối phương Tây phương của ta tỏ ra có ưu thế
về Không quân trên Địa trung hải, về phẩm chất cũng như về số lượng. Nga
đã ổn định được trận chiến trước Stalingrad và ở Caucase và nhờ có mùa
đông giúp sức, những thế trận mới của Nga đã thành công trong việc phá vỡ
những mặt trận vững chắc và quá rộng lớn mà một phần đã do Đồng minh
của chúng ta chiếm đóng ở vùng sông Volga và sông Don. Lộ quân thứ 6,