một mảnh đất và được sử dụng toàn bộ sản phẩm của mảnh đất đó. Nhưng
anh ta không được mua ruộng của người khác. Không được bán đất của mình.
Người giữ ruộng đất đó chết đi thì ruộng đất lại trở thành sở hữu của công xã.
Phương thức sở hữu tập thể đó được gọi là "ácsơ" ở Angiêri, "habu" ở
Tuynidi và Marốc.
Chế độ thuộc địa của Pháp đã phá vỡ tính tập thể của dân bản xứ và thay
vào đó bằng sự cướp đoạt trắng trợn.
Tiếp theo bạo lực và tàn phá thường mở đầu cuộc xâm lược, những
người nông dân Bắc Phi bắt đầu thấy mình bị những kẻ du đãng, phiêu lưu và
cho vay nặng lãi, tóm lại, là toàn bộ cặn bã của chính quốc tiến công. Bọn
thực dân, rốt cuộc là kẻ chiến thắng và những người dân bản xứ phải ngoan
ngoãn phục tùng chúng và nhường đất cho chúng.
Năm 1848, Angiêri lần đầu tiên chịu sức ép của cuộc tiến công kiểu ấy
của những kẻ đi khai hoá. Đó là 13.500 kẻ khốn cùng đã đe doạ thành phố
Pari và những người mà các xưởng máy thủ đô không chứa nổi. Ngoài chi phí
đi đường và nơi cư trú không mất tiền, họ còn được nhận gia súc, tiền ứng
trước, hạt giống, công cụ lao động và từ 4 đến 12 hécta đất lấy của những
người nông dân Angiêri.
Sau năm 1870, những người Andátxơ di cư cũng đóng vai trò thực dân
đó. Tất nhiên, họ đáng được trọng thị hơn những người đầu tiên, nhưng họ
cũng không kém nguy hiểm hơn đối với nông dân bản xứ, vì toàn bộ ruộng
đất mà họ được chia là lấy của nông dân địa phương. Tiếp theo đó, ngày càng
nhiều bọn thực dân tham lam, lên đường đi tìm hạnh phúc trên sự phá sản của
những người Arập.
Dân thuộc địa bị phá sản bằng nhiều cách: do "luật pháp" hành chính
của Chính phủ bảo hộ, do những hành động cá nhân của bọn địa chủ và hoạt
động của những nhóm người bản xứ đã trở thành
chỗ dựa của chế độ thuộc địa.
Chỉ riêng ở Angiêri và Tuynidi, chế độ thuộc địa chính thức đã lấy cắp
của nông dân bản xứ khoảng: 1 triệu 600 nghìn hécta đất nguyên của nông
dân sử dụng, 2 triệu 700 nghìn hécta rừng công, 800 nghìn hécta đất công.