và đánh lừa ngay cả Chính phủ. Thí dụ: Công ty Giơnevơ chiếm hơn 20.000
hécta; công ty Habra và Máctơ: 24.000 hécta; công ty Pháp - Angiêri: 90.000
hécta; công ty toàn Angiêri: 10.000 hécta; công ty Mácxây: 100.000 hécta.
ở Tuynidi, 55 chủ đồn điền Pháp chiếm 355.000 hécta đất, 30 chủ đồn
điền khác chiếm 160.000 hécta rừng.
Công ty thương mại điền địa chiếm phần lớn đất miền Cadablanca,
Rabát và Madagan. Tiếp theo là Tổng công ty Pháp ở Marốc. Công ty này
mua của dân bản xứ mỗi hécta giá từ 20 đến 30 phrăng và sau một thời gian
ngắn bán lại với giá 1.000 và 1.200 phrăng trong một vài tháng lãi tới
858.000 phrăng mà lúc đầu số vốn là 1 triệu và mới chỉ sử dụng một phần tư
số vốn đó.
Một nghị sĩ Quốc hội Pháp được nhượng mỏ quặng sắt ở Khamri.
Ông ta bán lại cho một công ty để khai thác với giá 10 triệu
phrăng. Những người nông dân bản xứ có đất đai thuộc khu mỏ ấy,
chỉ được lĩnh 112,5 phrăng một năm tiền cho thuê đất.
Một luật sư Pháp giao cho nhân viên của mình mua đất để làm tài sản
riêng với giá 20 phrăng. Đất ấy nằm giữa habu công cộng. Biết rằng đất đai ở
đó không có ranh giới rõ rệt, người phục vụ pháp luật của chúng gây ra
những chuyện khó khăn và lôi cuốn những người nông dân vào quá trình kiện
tụng rất tốn kém về phân định ranh giới. Đắt đến nỗi những người nông dân
nghèo cuối cùng phải bán lại đất của mình vì việc kiện tụng đã làm tốn
11.000 phrăng. Ông luật sư với sự giúp đỡ của hai mươi phrăng và một chút
giả dối, trở thành người chủ cả một làng, và những người nông dân còn cảm
thấy hạnh phúc, vì không bị đuổi khỏi mảnh đất ấy và được để lại làm việc
với tư cách là người nô lệ.
Những trường hợp tương tự như vậy thường thấy ở các thuộc địa và
chúng tôi còn có thể đưa ra nhiều thí dụ nữa, không kém phần bê bối.
Những tên địa chủ biết rõ là, dân bản xứ luôn luôn lo sợ bị trưng thu. Vì
vậy, khi nào họ muốn chiếm đất, họ sử dụng luật về trưng thu như một con
ngoáo ộp. Dân bản xứ tất nhiên muốn bán đất của mình với giá rẻ mạt, còn
hơn là để cho chính quyền hành chính bỗng chốc làm mình phá sản.