46 công ty kinh doanh về thương nghiệp với số vốn ước chừng l00 triệu
phrăng.
12 công ty kinh doanh về nông nghiệp với số vốn 22 triệu phrăng.
Với 100 thùng kéo tơ hiện có, hằng năm Đông Dương gửi sang cho nền
công nghiệp Pháp hơn 100 tấn tơ. Ngoài ra Đông Dương còn xuất cảng:
250 tấn thịt muối,
2.000 tấn da.
Công ty làm giấy Đông Dương sản xuất được mỗi năm 3.000 tấn giấy
bằng tre nứa. Công ty ximăng Poóclan Đông Dương mỗi năm cung cấp
150.000 tấn ximăng. Doanh nghiệp về tài chính, có Ngân hàng Đông Dương
nắm bá quyền. Năm 1876, doanh số của nó là 24.000.000 phrăng và đến năm
1921, con số ấy lên đến 6.718.000.000 phrăng.
Cũng trong thời gian đó, lãi của nó vọt từ 126.000 lên 22.854.000
phrăng. Nó được đặc quyền phát hành giấy bạc và nắm trong tay số phận của
các công ty kinh doanh về công nghiệp và thương nghiệp ở Đông Dương.
Chúng tôi có 3 hải cảng lớn (Sài Gòn, Đà Nẵng và Hải Phòng); quân
bình hằng năm có đến 5.500 tàu và thuyền buồm lớn vào ra chuyên chở từ 7
đến 8 triệu tấn hàng hoá nhập cảng và xuất cảng, trị giá từ 4 đến 4,5 tỷ
phrăng.
2.l00 kilômét đường sắt, 4.355 ôtô và 252 xe tải (số liệu năm 1923) được
dùng vào việc chuyên chở trên đường bộ.
Có tài nguyên phong phú trên đất nước mình, có nền đại thương nghiệp
tiến hành ở hải cảng của mình, có những số tiền kếch sù luân chuyển quanh
mình, ấy thế mà người dân An Nam lại sống đời sống nghèo nàn nhất. Sự
phồn thịnh ấy do bàn tay họ làm nên nhưng không phải để cho họ hưởng. Sự
áp bức về kinh tế cũng nặng trĩu ê chề trên lưng người bản xứ như sự áp bức
về mặt xã hội.
Thí dụ thứ nhất. Công nghiệp đánh cá của người bản xứ có 73.520
thuyền trên sông và 3.000 thuyền ven biển, tất cả là 76.520 thuyền. Số thu