nhập cả năm 1920 chỉ được 2.800.000 phrăng, như thế mỗi thuyền chỉ được
xấp xỉ 36 phrăng rưỡi.
Thí dụ thứ hai. Người ta có thể cãi, nếu người An Nam không biết tổ
chức nghề đánh cá của mình cho tốt hơn nữa, cái đó đâu có phải lỗi tại người
Pháp, mà là vì cách thức làm ăn và dụng cụ lạc hậu của người bản xứ chứ.
Nhưng, nếu họ làm ăn với dụng cụ của người Pháp tinh xảo hơn, và cả với
các chuyên gia Pháp nữa, thì số phận họ vẫn cứ thế mà thôi, mà lại có thể còn
tồi tệ hơn thế nữa kia. Công ty nông nghiệp ở Thanh Thuỷ Hạ, một công ty
của người Pháp, được lãi hằng năm 950.000 phrăng với số vốn chỉ có
l.200.000. ở đâu ra món lãi kếch sù đó, nếu không phải do sự bóc lột khủng
khiếp những người lao động An Nam?
Chưa hết đâu: Người An Nam, vì thân phận là phải è cổ ra đóng thuế,
phải nhả tiền ra làm cho các doanh nghiệp của bọn bóc lột mình phát đạt.
Thí dụ thứ ba. Trong hai năm, với số tiền bóp nặn của dân An Nam,
Nhà nước đã trả 6.000.000 phrăng kinh phí cho một phái đoàn nghiên cứu do
các ngài công nghiệp tơ ở Liông cử sang Đông Dương, 7.300.000 phrăng
thưởng cho các công ty khai thác mỏ, 23.800.000 phrăng cho các nhà trồng
cao su. Để khuyến khích cho thương nghiệp và công nghiệp bản xứ, chẳng
được lấy một xu.
Thí dụ thứ tư. Trong số 7.152.910 tấn hàng hóa chuyên chở ở hải cảng
của mình, về phần dân An Nam chỉ được có 12.231 tấn chuyên chở trên 542
chiếc thuyền buồm nhỏ.
Trong số 20 triệu dân An Nam, chỉ có 22.000 nhà tiểu thương.
Tuy hoàn cảnh xót xa như vậy, nhưng khi phải xỉa tiền ra thì lúc nào dân
An Nam cũng phải có mặt cả, chẳng phải tìm đâu xa, và khỏi làm các bạn mệt
mỏi với những hàng chữ số vô tận, tôi chỉ dẫn chứng một ít số thống kê từ
đầu chiến tranh, cũng đủ chứng tỏ rằng dân An Nam giỏi chịu đựng.
Năm 1915, họ phải đóng công thải 13.000.000 phrăng
- 1916 - 21.700.000 -
- 1917 - 47.600.000 -