Người An Nam phải đóng thuế nặng hơn người ấn Độ, Mã Lai, Nam
Dương và Nhật Bản nhiều. Nhưng đời sống kinh tế ở Nam Dương, ấn Độ và
Nhật Bản lại cao hơn ở Đông Dương nhiều lắm, dân những nước này có thể
đóng góp dễ dàng số thuế quá nặng đối với người An Nam.
*
* *
Trước thời Pháp thuộc, bộ thuế điền thổ ghi đầy đủ ruộng đất công và
ruộng đất tư có phân hạng theo loại sản vật trồng trọt. Thuế suất chỉ đánh từ
một đến năm hào một mẫu đối với ruộng cấy lúa. Đối với các loại ruộng đất
khác, thuế suất đánh từ hai hào đến một đồng tư. Đơn vị diện tích là mẫu tức
là một diện tích vuông mỗi cạnh độ 150 thước. Chiều dài của một thước An
Nam thay đổi tuỳ từng tỉnh từ 42, 47 đến 64 xăngtimét, do đó diện tích một
mẫu tuỳ nơi có thể là 3.970, 4.900 hoặc 6.200 mét vuông.
Để tăng thêm thu nhập cho Nhà nước, người ta dùng một đơn vị đo đạc,
dài 40 xăngtimét, ngắn hơn tất cả các đơn vị thường dùng, vì vậy diện tích
một mẫu chỉ còn 3.600 mét vuông. Bằng cách đó thuế điền thổ đã tăng lên
nhiều hay ít khác nhau tuỳ từng tỉnh: nơi thì tăng một phần mười, nơi thì tăng
một phần ba, nơi bị thiệt thòi nhất thì tăng đến hai phần ba.
Từ 1890, thuế trực thu tăng lên gấp đôi; từ 1896 đến 1898 tăng lên một
nửa và cứ như thế tăng lên mãi. Các xã thì cứ nai lưng ra đóng góp; còn biết
kêu ai bây giờ? Bóp nặn được thì bọn công sứ lại càng ra tay bóp nặn. Bọn
Pháp này cho rằng các xã vẫn ngoan ngoãn nộp đủ thuế thì tức là thuế má
chưa đến nỗi quá nặng nề!
*
* *
Hằng năm người ta phân bổ cho mỗi làng phải nộp thuế cho một số đinh
và một số ruộng đất các hạng. Cần có thêm tiền để chi tiêu chăng? Người ta
cứ sửa lại con số, mặc dầu đang giữa năm, rồi người ta bắt các làng phải đóng
đủ thuế cho số đinh, điền cao hơn số quy định đầu năm. Vì thế mà ở một tỉnh
Bắc Kỳ, toàn bộ diện tích chưa tới 120.000 hécta mà bản thống kê lại ghi
những 122.000 hécta ruộng và cứ như thế, người An Nam vẫn phải cúi đầu