đóng thuế khống cho những ruộng đất không có thực. Có kêu ca cũng chẳng
ai thèm nghe!
Không những thuế đã nặng nề mà lại còn thay đổi luôn.
Việc Chính phủ có nhân nhượng phần nào trong việc thu một số khoản thuế
lưu thông hàng hoá đã làm cho dân làng bị phiền nhiễu hơn và đã mở đường
cho tệ nhũng lạm. Có hôm người ta tha không đánh thuế cho một người gánh
một gánh cau, nhưng hôm sau người ta lại bắt người đó đóng thuế tuy gánh
một gánh nhẹ hơn. Đánh thuế như vậy thì khó mà công bằng được. Người ta
cấp một giấy phép lưu thông cho 150 kilôgam thuốc lào. Sắp xếp làm sao để
khỏi phải đánh thuế nhiều lần vào cùng một số thuốc đó khi số hàng này đã
chuyển sang tay một chủ khác, hay khi 150 kilôgam thuốc đó đã đem chia
cho ba, bốn người mua? Chỉ có tuỳ ở các ông nhà đoan, muốn làm gì thì làm
chứ không có luật pháp nào cả. Cho nên người An Nam rất sợ nhà đoan,
thoáng thấy nhân viên nhà đoan là họ đã vứt ngay giữa đường thúng muối,
thúng thuốc lá hay thúng cau mà họ đang gánh trên vai; thà mất của còn hơn
là đóng thuế quá nặng. Có vùng, người An Nam buộc phải nhổ thuốc
lào, chặt cau đi, để tránh khỏi bị phiền nhiễu vì các thứ thuế
mới.
Năm ngoái, miền trung Trung Kỳ bị điêu đứng vì nạn đói. Không cứu
giúp thì chớ, Chính phủ còn tăng thuế lên 30%.
Nhiều tỉnh ở Nam Kỳ bị nạn lụt phá hoại. Người ta cấm người An Nam
bàn đến việc đó và cấm tổ chức lạc quyên giúp đồng bào của họ bị nạn. Hơn
nữa, trong lúc dân chúng đói khổ vì thiên tai như vậy người ta vẫn bắt dân
đóng thuế như thường lệ. Để thu cho được thuế, đã xảy ra bao nhiêu vụ lạm
quyền, bao nhiêu cuộc truy bức thậm tệ đối với dân bị nạn.
Suốt cả năm, ở thành thị cũng như ở nông thôn, ngày nào người ta cũng
được mục kích những cuộc bắt bớ, khám xét gây nên những cảnh đau xót,
thảm thương trong việc thu các thứ thuế. Có lúc thu thuế đã thành một cuộc
săn bắt người. Người dân bản xứ nào mà không có tiền nộp kho bạc, chẳng
chịu cho người ta cùm kẹp và cũng chẳng muốn làm việc dưới làn roi vọt, thì
trốn biệt một xó và đành chịu chết đói ở đó.