Những người tình nguyện bản xứ - theo họ nói - được dẫn tới để sung
vào lính khố xanh và được khám sức khoẻ để tuyển mộ. Đấy là những người
dân mù chữ, sợ sệt mà quan công sứ mắng chửi và nắm tay đấm, lấy gậy vụt
vì họ trả lời hơi chậm chạp.
Ông đã hung bạo nắm tay đấm ba người lính bản xứ vì họ đã làm sổng
một người tù, ông túm tóc kéo lê họ dưới đất, đập đầu họ vào tường toà sứ.
Khi hỏi cung tù, quan công sứ lấy kiếm chích vào đùi họ. Có người đã
ngất khi đưa trở lại nhà giam.
Những người tù khốn khổ ăn không đủ no, áo quần rách rưới,
dậy từ sáng sớm cho đến tối mịt, gông đeo cổ, xiềng to xích chân,
người nọ xích vào người kia, phải kéo bánh xe lu, chiếc bánh xe
lu to tướng mà họ phải lăn trên mặt đường rải đá dày. Bị kiệt
sức, họ khó nhọc lê bước dưới mặt trời nóng bỏng. Quan công sứ
đến, cầm một chiếc gậy lớn theo thói quen, và với thói tàn bạo
không thể tưởng tượng, y vô cớ lần lượt vung gậy đánh những người
khốn khổ đó, mắng chửi họ lười biếng.
Một hôm, nhà khai hoá của chúng ta, vừa khiển trách một nhân viên
người Âu, và không biết trút tức giận vào đâu, y vớ một cái thước sắt trên bàn
giấy và đánh gãy hai ngón tay của một người thư ký bản xứ không có liên
quan gì đến việc này.
Một hôm khác, y lấy roi vụt vào mặt một viên cai bản xứ trước mặt binh
lính của anh ta.
Một lần khác, y chôn ngập đến cổ những người lính trái ý y
và chỉ cho đào lên khi họ đã gần chết.
Khi y đến những con đường mà y bắt những người bản xứ phải làm với
ngày công một hay hai xu, sau khi đã bắt họ phải chuộc ngày lao dịch với giá
mười lăm xu một ngày, thì người ta đếm thấy hàng tá người gãy chân vì bị
đánh bằng xẻng và cán cuốc.
Một lần, tại một công trường, y vớ lấy súng của một người giám thị để
đánh một người tù. Người tù này tìm cách lẩn tránh được, quan công sứ quay
lại người gác và dùng khẩu súng đó đánh luôn. Người vợ xứng đáng của