Cơn giận của bóng ma gần như có thể sờ thấy được, điền đầy không
gian như một đám mây ong bắp cày hung dữ. “Thêm vài phút nữa đi.” Ông
nói một cách bướng bỉnh.
“Không. Tôi vừa trải qua phần tốt nhất trong ngày để phân loại
đống rác này vì lợi ích của ông. Tôi còn có những thứ khác phải làm nữa.
Là công việc đấy. Không giống như ông, tôi không thể sống bằng không
khí được.”
Bóng ma đáp lại bằng một cái nhìn đe dọa.
Trong im lặng, Alex thu xếp những thứ hỗn loạn, tách điện thoại
của anh khỏi loa, nhặt chiếc túi nhựa khổng lồ lên, và bắt đầu lôi nó ra khỏi
căn gác mái. Giữa những tiếng rầm rầm, loảng xoảng, sột xoạt của mớ rác,
anh nghe thấy bóng ma bắt đầu hát bài hát mà ông biết rằng Alex ghét hơn
tất cả mọi thứ trên đời.
Down Hawaii way, where I chanced to stray, on an evening I heard
a Hula maiden play… Yaaka hula hickey dula, Yaaka hula hickey doou
…
(
Xuống đường phố ở Hawaii, nơi tôi có cơ hội lạc lối, và một đêm, tôi nghe cô nàng Hula hát…
Yaaka hula hickey dula, Yaaka hula hickey doou…)
“Ngưng ngay cái thứ khốn kiếp đó đi.” Alex nói. “Tôi muốn thế.”
Nhưng khi anh xuống đến sàn tầng hai, giai điệu khó chịu ấy vẫn tiếp tục.
… Oh, I don’t care if you’ve loved the ladies far and near… You’d
forget about them all if you could hear… Yaaka hula hickey dula, Yaaka
hula hickey doo…!
(Ồ, em không quan tâm liệu anh có yêu những phụ nữ ở khắp nơi không…
Anh sẽ quên tất cả bọn họ nếu anh nghe được… Yaaka hula hickey dula, Yaaka hula hickey doo…!)
Chương mười.