Vì thương con, nên mẹ em đành nhẫn nhục. Năm ấy, em mười ba tuổi, vừa
xinh đẹp vừa có giọng hát hay nên bị xung vào đội ca múa của vua Chế
Bồng Nga. Đầu tiên, em phải học múa hát, do một bà cung nữ già truyền
dậy. Người Chiêm múa rất khéo mà hát cũng lạ và hay. Chỉ một năm sau.
em đã tinh thông mọi ngón đàn ca của họ. Cha em, xưa kia là trai cầy hết
vụ nông lại cùng bè bạn họp thành gánh hát, lang thang khắp vùng châu thổ
sông Hồng, sau gặp mẹ em cô gái thuyền chài có giọng hò làm mê mẩn
lòng người, cha di theo mẹ và trở thành dân chài. Chính vì thế nên dù học
hát người Chiêm, em vẫn không quên các làn điệu của người Việt. Thỉnh
thoảng, em vẫn hát giọng Việt cho người Chiêm nghe. Nhưng phải nói, em
đã bị lây giọng Chiêm rất nhiều. Người Chiêm thích giọng hát buồn. Mà
đời em nào có ra gì, nên giọng em càng buồn hơn. Do đó, người Chiêm
Thành rất thích nghe em hát...
Kể tới dây, Thanh Mai ngồi nhỏm dậy, lấy cây đàn nguyệt. Trong đêm
thanh vắng, tiếng đàn của cô chợt vang lên não nùng. Cô nhấn, cô luyến, cô
láy chậm rãi như một tiếng thổn thức. Cô hát lên khe khẽ:
Con ngựa Hồ?
Ơ con ngựa Hồ?
Mi ăn cỏ phương Nam
Uống nước dòng sông Thu Bồn...
Đêm đêm hí trăng,
Hí về phương Bắc
Mày nhớ con sông màu đỏ.
Mày nhớ bờ lau xám buồn
Mày nhớ ai da diết ngày đêm...
- Nàng làm bài hát đó ư? Sao mà sầu thảm đến thế? - Tôi khẽ khàng hỏi.
- Không phải của em. Bài hát của mẹ em đấy. Khi bị bắt làm vợ người ta, vì
nhớ cha em, nhớ con sông Hồng, mẹ đã hát như thế. Hát theo một điệu hát
ngày xưa của bố, rồi mẹ héo hon mà ốm. Mẹ bỏ ăn hàng tháng trời mới
chết nơi đất khách quê người.
Thanh Mai treo cây nguyệt cầm lên tường, ngồi thừ ra hồi lâu mới hết xúc
động. Nàng kể tiếp: