Khi Quí Ly và vua tôi nhà Hồ đến cửa Kỳ La thì một đoàn kỳ lão ra
đón tiếp và tâu : « Xứ này tên là Cơ Lê, có núi tên là Thiên Cầm, xin nhà
vua chớ lưu lại ở đây ».
Sự thật, các kỳ lão cố ý đọc trệch chữ Kỳ la ra Cơ lê, nghĩa là trói họ Lê
vì trước khi lên ngôi, Quí Ly mang họ Lê ; còn Thiên Cầm, có nghĩa là Trời
bắt. Sự thật, Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn của Trời. Tương truyền ngày
xưa, vua Hùng Vương đi qua đó, nghe tiếng gió hút vi vu qua khe núi nên
đặt tên núi là Thiên Cầm.
Quí Ly rất rành về địa danh vùng Thanh Nghệ, biết tên từng con sông,
ngọn núi, nay nghe bọn kỳ lão ngụ ý quyền rũa mình, nổi giận ra lịnh chém
cả.
Ít lâu, quân Minh kéo thuỷ bộ rầm rộ tới, bắt được Quí Ly ở núi Thiên
cầm, ngày hôm sau, bắt được Hán Thương với con là Nhuế Lố ở núi Cao
vọng cũng thuộc huyện Kỳ Anh.
Các đại thần tướng tá như Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu
tướng quốc Quí Tỳ, em ruột Quí Ly, cùng với con Quí Tỳ là Phán trung đô
Vô Cữu, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn
Kích, lần lượt rơi vào tay quân Minh.
Bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Cẫn, Đỗ Mãn… đã hàng Minh trước đó
ít lâu. Ngoài ra, Hành khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miên cùng vợ là
Kiều Biểu giữ chức Trực trường không chịu nhục, đều tự trầm.
Để xoá bỏ hẳn màu sắc Việt Nam, quân Minh thâu góp tất cả sách vở
hay do người Việt soạn thảo chở hết về Tàu, bắt cả các danh sĩ có dính dáng
đến triều Hồ mang đi, trong đó có cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn phi
Khanh, cùng hai con là Phi Bảo, Phi Hùng. Phi Khanh đã đỗ Thái học sinh
thứ hai (Tiến sĩ) dưới đời vua Trần Duệ Tông khoa Giáp Dần (I374), mang
chức Hàn lâm học sĩ của triều Hồ Hán Thương về ở ẩn.
Tháng sau, tướng Minh là Lỗ Lân, Liễu Thăng giải gia quyến Quí Ly
cùng những người bị chúng bắt về Kim Lăng.