về Nam, cho quân sang đánh vua Chiêm La Ba Đích, bắt dâng Chiêm Động
và Cổ Lũy (I402). Ông chia hai nơi nầy thành 4 châu : Thăng, Hoa, Tư,
Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa để trông coi bốn châu ấy, do Nguyễn Cảnh Chân
làm An phủ sứ. Chỗ giáp giới đất Chiêm thì đặt ra trấn Tân ninh.
Quí Ly cho dân nghèo vào khai thác đất mới. Họ được tổ chức thành
đoàn như quân đội, mang cả vợ con theo, chia nhau chiếm hữu đất mới để
khẩn hoang lập nghiệp. Họ phải thích ở cánh tay tên châu mình trú ngụ. Vấn
đề trâu bò để cày ruộng cũng được giải quyết : ai cung cấp trâu bò để chánh
quyền phát lại cho di dân thì được ban phẩm tước.
Bấy nhiêu đó đủ chứng minh ý thức rõ rệt cuộc Nam tiến của dân tộc,
nới rộng vùng đất sinh tồn của dân Việt đang bành trướng về mọi mặt. Vì
vậy, ông tổ chức thật chu đáo và tỉ mỉ việc di dân với đầy đủ những gì cần
thiết cho người dân sinh cơ lập nghiệp sống vĩnh viễn ở miền vừa chiếm
được.
Năm Quý Mùi (I403), Quí Ly lập Quảng tế thự (như bịnh viện của
chính phủ ngày nay) để chữa bịnh cho dân. Nguyễn Đại Năng, một y sĩ
chuyên khoa châm cứu được cử ra trông nom.
Để cứu trợ nạn đói sau những cơn giặc giã, lụt lội, hạn hán, Quí Ly cho
lập mỗi lộ một kho thóc, gọi là kho Thương Bình, xuất của công mua lúa lúc
giá hạ, dành bán rẻ cho dân lúc khó khăn, hoặc đem chẩn bần khi hữu sự.
Ở các miền biển, chánh quyền cho đắp đê ngăn nước mặn để có thêm
ruộng cho dân, và khai thác các bến, các sông vùng Thanh Hóa, Nghệ An để
bành trướng các đường giao thông trên mặt nước, giúp cho việc thương mãi
thuận tiện hơn.
Ngoài ra, Quí Ly cũng không quên hủy bỏ một bất công xã hội là chế
độ tập ấm, nghĩa là nhà nào có quan tước, thì con cháu được thừa ấm rồi sau
ra làm quan. Thường dân, không quan tước thì đời nầy sang đời khác chỉ
làm binh lính. Vì vậy, mới có câu tục nghữ « con vua thì lại làm vua, con sãi
ở chùa lại quét lá đa », để diễn tả sự bất bình của nhân dân.