thực tế, người ta cho rằng tiền giấy, loại tiền bị bắt buộc lưu thông từ tháng
4/1790, đã tác động tiêu cực trên diện rộng. Sự mất giá nhanh chóng của
tiền giấy và giá cả ngày càng tăng đã trở thành nguyên nhân sâu xa của các
cuộc khủng hoảng lặp đi lặp lại và những cuộc nổi loạn do khủng hoảng
gây ra, đặc biệt là trong giai đoạn 1792-1795. Việc phát hành tiền giấy bừa
bãi đã góp phần gia tăng tình trạng buôn bán các vùng đất được sung công
từ Nhà thờ vào tháng 11/1789 và của những người di cư vào tháng 7/1792.
Những điều khoản mua bán cho phép trả góp trong 12 năm sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho người mua, thậm chí chưa tính đến lợi ích do việc thanh toán
bằng tiền giấy bị mất giá, được nhiều người coi là liều thuốc bách bệnh khi
việc thu thuế thường xuyên bị khất lại, tiền giấy được dùng như một công
cụ tài khóa để đáp ứng các chi phí hoạt động của nhà nước. Chính sách ấy,
vốn có từ trước, đã trở thành thông lệ khi chi phí chiến tranh ngày càng tăng
sau tháng 4/1792.
Chỉ đến khi xảy ra tình trạng lạm phát phi mã năm 1795, cũng là năm xảy
ra nạn đói khủng khiếp tại Pháp, người ta mới quan tâm đến chính sách tiền
tệ bền vững hơn. Hội đồng Đốc chính đã hủy bỏ tiền giấy vào tháng 2/1796,
đồng thời áp dụng một biện pháp thay thế là “các lệnh ủy thác lãnh thổ”.
Các lệnh này trên danh nghĩa, chúng được bảo vệ dựa vào doanh số bán các
vùng đất, cuối cùng đã kết thúc ồn ào trong vụ xì-căng-đan Compaignie,
Dijon (1796-1797). Cái được gọi là “phá sản hai phần ba” (9/1797) đã đánh
dấu sự từ chối các nghĩa vụ đối với các khoản nợ công. Không một biện
pháp nào có thể giúp phục hồi khả năng thanh toán của nhà nước hay trị
được căn bệnh nan y nợ động thuế. Còn Hội đồng Đốc chính sau này ngày
càng phụ thuộc vào các vụ làm ăn phi pháp với các thương gia chiến tranh
và những kẻ đầu cơ trục lợi. Không khó để nhận ra những chính sách tài
chính của các thể chế cách mạng khác nhau lại tạo được một sức ép lớn và
tại sao những kinh nghiệm sử dụng tiền giấy lại gặp phải những lời chỉ trích
gay gắt như vậy?