Trong số những kẻ tội phạm tình dục tại một cơ sở điều trị, những kẻ
hiếp dâm, những kẻ từng tấn công thiếu niên, và những kẻ từng tấn công trẻ
em, có tỷ lệ thái nhân cách (PCL-R) trung bình lần lượt là 76,5%, 24,0% và
14,8%. Một nửa số những kẻ hiếp dâm hàng loạt có thể là thái nhân cách.
[63]
Những kẻ hiếp dâm được chia thành bốn loại cơ bản: trả thù, cơ hội, bạo
dâm và không bạo dâm. Động lực chính của loại bạo dâm và không bạo
dâm là tình dục; động lực chính của loại trả thù và cơ hội là tính hung hăng
hay thù địch. Chứng thái nhân cách có tỷ lệ cao ở những kẻ hiếp dâm cơ
hội hoặc bạo dâm. 81% những kẻ hiếp dâm thái nhân cách và 56% những
kẻ hiếp dâm không phải thái nhân cách được phân loại là cơ hội hoặc trả
thù. [64]
Những kẻ thái nhân cách sử dụng đến bạo lực một cách thường xuyên và
nghiêm trọng hơn trong khi gây ra tội ác tình dục. Các nghiên cứu chỉ ra
rằng chứng thái nhân cách có thể được gắn với tính tàn bạo tình dục. Điểm
PCL-R cao có mối tương quan dương với sự kích thích tình dục qua bạo
lực được chứng tỏ qua phép đo thể tích dương vật. [65]
Những kẻ tội phạm tình dục thường khó điều trị, [66] nhưng chính những
kẻ thái nhân cách trong số chúng là có nhiều khả năng tái phạm sớm và
thường xuyên nhất. [67]
Một nghiên cứu cho thấy trong vòng sáu năm kể từ khi ra tù, hơn 80%
những kẻ tội phạm tình dục thái nhân cách phạm tội bạo lực ít nhất một lần,
trong khi con số đó ở những kẻ không phải thái nhân cách là 20%. Nhiều,
nhưng không phải tất cả những tội ác này là về tình dục. [68] Trong một
nghiên cứu tiếp theo trên một mẫu nghiên cứu lớn, các nhà nghiên cứu thu
được những kết quả tương tự, và thêm vào đó còn tìm ra: sự tái phạm tội ác
tình dục có thể được dự đoán rất tốt bởi sự kết hợp của một điểm PCL-R
cao và bằng chứng qua đo thể tích dương vật cho thấy sở thích với những