hàng chục gã lêu lổng đang sẵn sàng đại tu sức khỏe bằng các loại ốc, sò
tươi sống, những trẻ bán hàng, những người mù hát dạo những bản tango
hoài niệm, nhưng người đàn ông gầy, mà chắc chắn là tôi biết, vẫn biệt vô
âm tín.
Đến tối ngày thứ tư thì tôi thấy anh ta, và tôi cảm thấy một cú nhói
mạnh trong lồng ngực, vì trước mặt tôi là một người đồng chí thân thiết và
đáng quý mà tôi tưởng, như với những người đồng chí khác, đã thất lạc đâu
đó trên thế gian rộng lớn này. Tôi vừa ôm siết anh trong vòng tay vừa nói
với anh điều duy nhất tôi biết về anh: “Oscar”, vì dưới cái tên đó tôi đã biết
anh ở Quito gần hai mươi năm trước, nhưng “Oscar” không đáp lại vòng
tay ôm của tôi, cũng không phản ứng gì, và vì tôi vừa lay anh vừa nhắc lại
với anh rằng tôi đây, tôi thấy hai cánh tay anh lủng lẳng trong một tư thế ủ
rũ, đầu anh hơi gục xuống và đôi mắt chìm trong một màn hơi ẩm muốn
chặn không cho những giọt nước mắt chực trào ra.
Chúng tôi nhìn nhau. Tôi thậm chí không biết tên thật của anh. Chúng
tôi biết nhau trong những năm khắc nghiệt, thời mà, ngay cả khi sống lưu
vong, tính chất bí mật áp đặt những luật lệ hà khắc và đòi hỏi chúng tôi biết
càng ít về nhau càng tốt.
Có sự trìu mến trong mắt anh và tôi đặt cho anh nhiều câu hỏi để biết
điều gì đã xảy đến với anh, anh sống ở đâu, anh có muốn uống gì đó không,
nhưng anh không trả lời và đến mức tôi phải tự hỏi liệu anh có hiểu tôi
đang nói gì không.
Chúng tôi cứ như vậy trong gần hai giờ đồng hồ vô tận. Tôi nói, và
“Oscar” trả lời bằng đôi mắt long lanh trong một thứ ngôn ngữ mà tôi
không tài nào giải mã được, cho tới khi một phụ nữ, một trong những phụ
nữ sớm già trước tuổi với những nếp nhăn nhắc ta nhớ rằng nền độc tài đã
lấy đi của họ không chỉ gia đình và bạn bè mà cả những năm tháng cuộc
đời, chị lại gần và, với một giọng buồn, thông báo với tôi rằng “Oscar”