nên gọi là nguyệt.
Ngọc Hoàn: tức là Dương ngọc Hoàn hay Dương quí Phi vợ vua Đường
Minh Hoàng. Đây vì Giao Tiên cũng họ Dương nên dùng điển ấy.
Ác vàng: là con quạ vàng do chữ kim-ô tức là mặt trời.
Rượu đua cuộc thánh thơ bồi câu tiên: Rượu thánh thơ tiên là rượu ngon
thơ hay,
bẻ liễu: sách Tam-phụ Hoàn-đồ chép : nơi Bá-kiều (cầu ở gần kinh-đô
Tràng-an) người đưa nhau đến đó bẻ liễu tặng nhau làm roi ngựa. cho nên
sau dùng chữ chiết-liễu (bẻ liễu) là chỉ sự tiễn-biệt,
Gửi mai: do chữ ký mai ở truyện Lục Khải bẻ cành mai gửi thế phong thư,
rèm tương: rèm bằng tre đồo-mồi.
lở đỉnh lấp giòng: nghĩa bóng : phá hoại sự thề non hẹn bể.
gối chiếc, chăn mong: nghĩa là không có lứa đôi, phải dùng cái gối lẻ chăn
đơn
xuân khóa: là khóa vườn xuân. Nghĩa bóng giữ-gìn nết-na,
ngấn ngọc: Ngọc do chữ ngọc lệ : nước mắt như ngọc. Ngấn nọc : là hoen-
ố nước mắt của một gái đẹp.
bèo nước: do chữ Bình-thuỷ. Ví sự lưu-lạc của người như mặt nước cánh
bèo, trôi-nổi không định vào đâu.
Nhện sa: mỗi khi có con nhện sa người ta đoán là có tin lành hoạc điềm dữ
sắp đến,
Chày khuya: tức là cái chày để dộng chuông. Chày khuya : là tiếng chuông
chùa đêm khuya,
trúc lệ: nước mắt dỏ vào cành trúc,
doanh-liễu: là tên một doanh-thự ở đất tế-liễu.
bệ thiều: là nơi thềm quí-báu nhà vua, do chữ thiều là nhạc thiều.
con kiêu: do chữ kiêu-tử . Sách Hán-thư chép rõ chuyện rợ Hung-nô, câu
quốc-thư của rợ Thuyền-vu gửi vua Hán rằng : Phương nam có nhà đại
Hán, phương bắc có cường Hồ, ấy là đứa con kiêu-ngạo nhà vua vậy,
ải nhàn: do chữ Nhạn-môn quan ; cửa ải đi sang rợ Hồ, đường núi cao và
nguy hiểm nên chim nhạn thường bay ngang qua.
Sân phong: bởi chữ phong đình. Cây phong tựa cây bàn, mùa thu lá đỏ có