HOA-TIÊN TRUYỆN - Trang 57

vẻ đẹp nên thường trồng ở sân chầu của vua.
sao truyền: do chữ tin truyền ; truyền đi gấp, đi suốt ngày đêm. sao ban
đêm
Hồ-yết: là tên rợ ở xứ Hung-nô,
kiều-tử: Kiều, một thứ cây cao và thẳng có vẻ nghiêm-trang. Tử : một thứ
cây lùn có vẻ phục tùng nên người ta ví Kiều tử là cha con,
phần hương: là làng vua Hán Cao-tổ ở, gọi là Phần-du, về sau xưng là
Phần-hương là quê làng là bởi thói quen,
Cánh nào bay: là ý mong chắp cánh chắp cánh bay đến,
Hoàng-diêu, Tử-ngụy: màu vàng của họ Diêu, màu tím của họ Nguỵ là hai
tên riêng của hoa mẫu-đơn gọi là Diêu-hoàng, Nguỵ-tử
Lương: tức cái rường nhà,
Xã-thơ: bởi chữ thi-xã : nhóm người hay thơ họp nhau làm một hội ngâm
thơ,
dương-liễu: tức cây liễu yếu, ngày xuân dủ cành như tơ.
Liễu chương-đài: bởi điển Hàng Hoằng yêu một kỹ nữ là Liễu-thị ở đường
chương-đài, tại thành-đô, về sau bỏ nàng đã ba năm không đem về ở chung,
sau gửi thửi thư thăm nàng có câu : Liễu Chương-đài, liễu Chương-đài
ngày xưa xanh tốt, ngày nay thế nào ? Liễu-thị trả lời : liễu Chương-đài,
liễu Chương-đài, còn xanh chi xiết tay người hái vin. về sau Liễu-thị bị
tướng phiên đoạt. Rồi Hứa Tuấn lại cướp lại mà trả cho hàng Hoằng. Điển
này thường dùng hỏi thăm người tình-nhân.
dập lửa vùi hương: bởi chữ hương hoả nhân-duyên. Người xưa khi thề
nguyên nhân-duyên cùng nhau thườngdùng hương lửa mà thề nguyền trước
thần-linh,
thẻ cạn: tức canh khuya. Xưa dùng cái đồng-hồ bằng cái chậu đồng dỏ
nước và cái thẻ ghi giờ.
nhà lan: do chữ lan-thất là sự giao-du với người quân-tử,
vân cù: đường mây, tức đường công-danh cũng như thang mây,
bằng: con chim lớn nhất, mỗi khi cất cánh bay đến sáu muôn dặm mới
nghỉ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.