họp mặt tròn gương: tức như vợ chồng tái hợp.
chiếc bách: chiếc thuyền bằng gỗ bách.
biên-thành: nơi đồn-luỹ chốn biên-giới.
Bụi Hồ: là giặc rợ Hồ.
chuông vàng: bởi chữ hoàng chung, ý nói tiếng-tăm lừng-lẫy.
Bọc da: do chữ mã cách loã thi : da ngựa bọc thây : là cái chết của người
nam-nhi có chí-khí ra đánh giặc, có chết thì lấy da ngựa bọc thây chôn là đủ
vậy.
chuẩn doãn: là ý cho được.
Cờ sai: cờ lệnh của vua sai.
Bệ từ: là từ tạ nơi bệ ngọc,
ngựa gác xe chen: do chữ mã giá xa thặng. Giá là xe một ngựa, thặng là xe
bốn ngựa để chở quân.
Miếu-đường: nơi tôn-miếu nhà vua thờ các tiên-vương,
Hành-biên: đi ra ngoài biên-trấn.
Vấn an: thăm viếng.
Đào kia đành trả mận này: do câu thơ Cổ-nhạc-phủ có nghĩa : cây đào
sinh trên giếng lộ, bên có cây lý, con sâu đến cắn rễ đào, cây lý chết thế cho
cây đào ( lý là cây mận) . Đây ví người thế thân cho nhau trong cơn hoạn-
nạn.
cá nhảy đợt ba: là cá nhảy trên từng sóng, ví thí đỗ cao.
Lễ chiêu: lễ chiêu hồn,
cơm vàng: bởi chữ hoàng lương là thứ gạo quí và ngon
Dây đàn đứt nối: gọi chữ tục huyền là nối dây đàn, ví sự tái thú, cưới vợ
lần thứ hai.
lời oanh-yến: chim oanh nói nhiều giọng, chim yến có nhiều đôi lứa. Đây
dùng lời oanh yến ví lời nói khéo-khôn về chuyện ép-nài đôi lứa.
Cương thường: là những giềng-mối của người đời tức tam cương ngũ
thường,
di luân: là đạo thường làm người
đông quân: thần coi về phương đông, cũng gọi là đông hoàng ; chúa xuân,
dẫn điền: Dẫn là khước đi không chịu, Điền : thế vào. Dẫn điền là trả của