HOÀNG ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN - Trang 38

38


(1)-. Tam-dương là Túc Thái-dương BÀNG-QUANG kinh. Tam-âm là Túc Thái-âm TỲ kinh. Mạch của Bàng-quang từ ñầu lưng

dẫn xuống chân, mạch của Tỳ chủ về TỨ CHI (hai tay, hai chân). Vì 2 kinh ñó mắc bịnh nên phát thành các chứng trạng
trên.

-- THIÊN-KHÔ : khô ñét một nửa người.

-- NUY-DỊCH : tay chân rã rời, lúc ở bên tả, lúc ở bên hữu, hàng biến dịch luôn.

--TỨ CHI BẤT CỬ : tay chân không cử ñộng ñược.

Tiết này nói bịnh gây nên từ Thủy-phủ rồi phạm lên TỲ-Thổ.,



KINH VĂN ________________________________________________________________________

Án vào mạch thấy bật lên “nhất-dương” gọi là CÂU ; thấy mạch bật lên “nhất-âm” gọi là MAO ; thấy Dương-

mạch bật lên mà CẤP gọi là HUYỀN. Thấy Dương-mạch bật lên mà TUYỆT gọi là THẠCH. Thấy âm-dương 2 mạch,

có vẻ bình quân gọi là LƯU.

(1)



(1)-. Tiết này nói về Mạch-thế của 5 Tạng :
--

NHẤT-DƯƠNG là Vi-dương “bật lên” tức là luồng mạch bật lên ñầu ngón tay của người án mạch – CÂU : hình dung từ

tả cái trạng thái của luồng mạch lúc lại ñầy ñủ, lúc ñi ngoằn ngoèo và chậm…. ñó là mạch của TÂM.

--

NHẤT-ÂM : là Vi-âm, “MAO” : hình dung từ tả cái trạng thái của cái luồng mạch nhẹ nhàng như cái lông, ñó là mạch

của PHẾ.

--

Dương mạch bật lên, có vẻ căng thẳng nhưng không thẳng quá gọi là HUYỀN. “Huyền” : hình dung từ chỉ cái trạng thái

của mạch như dây cung lúc dương, ñó là mạch của CAN.

--

Dương mạch bật lên, mà lúc chùn xuống coi như tuyệt, gọi là THẠCH. “Thạch” : hình dung từ chỉ cái trạng lthái của

mạch chìm xuống và rắn như ñá, ñó là mạch của THẬN.

--

“LƯU”: hình dung từ chỉ cái trạng thái của mạch hòa hoãn như giòng nước chảy, ñó là mạch của TỲ.,



KINH VĂN ________________________________________________________________________

Âm tranh giành ở bên trong, Dương rắc rối ở bên ngoài ; phách-hãn không thâu tàng, tức nghịch sẽ nổi dậy ; rồi

hun lên Phế, gây nên SUYỄN-MINH

(1)

.

Âm ñó sỉnh ra, gốc có hòa mới là hòa

(2)

. Nếu cương gặp cương, Dương-khí sẽ bị phá tán ; Âm-khí cũng bị tiêu

vong

(3)

.

Cương-nhu không hòa, kinh khí sẽ tuyệt

(4)

.



(1)-. Tiết này nói về hai khí Dinh-Vệ (cũng là âm-dương, là huyết-khí) cốt ở ñiều hòa, không nên thiên thắng. Hòa thời khí âm

dương sẽ sinh ra, thiên thắng thời khí âm dương sẽ giảm ñi, kinh khí do ñó mà tuyệt.

--

Kinh mạch tạng phủ ở trong con người cùng giao thông tuần hoàn lẫn nhau, không lúc nào dứt. Âm ở bên trong ñể giữ

gìn cho Dương ; Dương ở bên ngoài ñể bảo vệ cho Âm. Nếu âm khí thiên thắng không ñược dương khí ñể ñiều hòa, thời âm
sẽ tranh giành ở bên trong. Nếu dương khí thiên thắng, không ñược âm khí ñể ñiều hòa, thời dương khí sẽ rắc rối ở bên
ngoài.

--

Cao-Sĩ-Tông nói :

“ Ở ñây nói nếu 2 khí âm-dương không hòa, thời sẽ sinh ra bịnh DƯƠNG-KẾT, ÂM-KẾT. còn như

cương với cương gặp nhau thời lại là Dương truyền cho Dương, Âm truyền cho Âm… tức là một “tử hậu” (chứng chết) do âm

dương tuyệt vậy”.

(2)-. ðây nói: âm phải liên lạc với dương. Vì thế nên âm-dịch không nên ñể cho tiết ra ngoài. Hãn là một chất lỏng lo Huyết sinh

ra . “PHÁCH-HÃN” tức là hãn do PHẾ tiết ra (vì Phế tàng PHÁCH nên gọi hãn của Phế là Phách-hãn). Kinh khí dẫn lên Phế,
Phế là nơi tổng hội của trăm mạch, chuyển-du tinh trấp ra bì-mao, hãn ra khỏi bì mao, mà tinh huyết vẫn còn tàng ở âm.
Nếu phách-hãn không thâu tàng ñược, ñó là hãn bị cưỡng ra, tinh huyết sẽ ñó mà bị thương. Phế chủ về việc dẫn hành
Dinh-vệ âm dương. Nếu âm-dịch của Phế tạng bị tiết ra ngoài, tức thời sinh ra TÁO-NHIỆT ; nhiệt cực hàn sinh, tứ chi sẽ do
ñó mà Quyết-nghịch ; nhiệt hun ở Phế, nên thành chứng SUYỄN-MINH (thở gấp và hơi thở kêu khò khè).

(3)-. ðây nói : Dương có hòa với âm, mới ñáng gọi là HÒA. Ngoại-mạch là dương, Phủ-mạch là dương, nhưng ñều do 5 tạng, 5

hành mà sinh ra, nên mới nói là “

Âm ñó sinh ra”.

(4)-. “

cương gặp cương”

là dương không hòa với âm. Dương không hòa với âm thời dương-khí bị phá tán, mà cô-âm (âm trơ

trọi có một mình) cũng bị tiêu vong..

Cương (dương) với Nhu (âm) không hòa, thời kinh-khí sẽ tuyệt. kinh-khí tuyệt, chỉ trong vòng 3, 4 ngày sẽ chết.,.




KINH VĂN ________________________________________________________________________

Về loài TỬ-ÂM chẳng qua 3 ngày thời chết ; về loài SINH-DƯƠNG chẳng qua 4 ngày thời chết

(1)

Can truyền sang Tâm…. Gọi là SINH-DƯƠNG, Tâm truyền sang Phế gọi là TỬ-ÂM

(2)

.

Phế truyền sang Thận gọi làTRÙNG-ÂM ; Thận truyền sang Tỳ gọi là TỊCH-ÂM ; chết, không chữa ñược

(3)

.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.