4
KINH VĂN ________________________________________________________________________
Hoàng ðế hỏi :
- Người ñến tuổi già thời không sinh con, vì tinh lực hết chăng ? hay tại số Trời ?
Kỳ Bá thưa :
- Con gái 7 tuổi thời Thận-khí ñầy ñủ, răng ñổi tóc dài, hai lần 7 (14 tuổi) thời Thiên quý
(1)
sinh ra, Nhâm mạch
thông, Thái xung mạch thịnh
(2)
kinh nguyệt ñúng kỳ xuống
(3)
nên mới có con – ðến năm ba bảy (21 tuổi) Thận
khí ñiều hòa, chân nha mọc hết
(4)
– ðến năm bốn bảy (28 tuổi) gân xương ñều bền rắn, tóc dài hết mực, thân thể
khỏe mạnh – ðến năm năm bảy (35 tuổi) Dương minh mạch suy, vẻ mặt bắt ñầu khô khan, tóc bắt ñầu rụng
(5)
–
ðến năm sáu bảy (42 tuổi) mạch của 3 kinh Dương suy kém ở trên, vẻ mặt khô khan hẳn, tóc bạc
(6)
– ðến năm
bảy bảy (49 tuổi) Nhâm mạch hư, Thái-xung mạch kém sút, Thiên-quý hết, ñịa ñạo không thông, cho nên thân thể
hao mòn mà không có con.
(7)
- Con trai 8 tuổi thời Thận-khí ñầy ñủ, tóc dài răng ñổi
(8)
– ñến năm hai lần tám (16 tuổi) Thận-khí thịnh, Thiên
quý ñến, tinh khí ñầy tràn, Âm Dương hòa nên mới có con
(9)
– ñến năm ba tám (24 tuổi) Thận-khí ñều hòa gân
xương cứng mạnh, chân nha mọc hết – ðến năm bốn tám (32 tuổi) gân xương ñầy ñủ, cơ nhục nở nang – ðến
năm năm tám (40 tuổi) Thận-khí suy dần, tóc rụng răng se
(10)
– ðến năm sáu tám (48 tuổi) Dương-khí suy kiệt ở
trên, vẻ mặt khô khan, râu tóc lốm ñốm trắng – ðến năm bảy tám (56 tuổi) Can-khí suy, sự cử ñộng của gân yếu,
Thiên quý hết, tinh ít, Thận tạng sút, toàn thân mõi mệt
(11)
– ðến năm tám tám (64 tuổi) răng tóc ñều rụng.
Thận chủ về THỦY (nước), chứa ñựng TINH của 5 tạng 6 phủ - Năm Tạng có ñầy ñủ (thịnh) mới có thể tả ra. Giờ 5
tạng ñều suy, gân xương rã rời, Thiên quý hết rồi, cho nên râu tóc bạc, thân thể nặng nề, ñi ñứng không vững mà
không có con
(12)
.
CHÚ GIẢI :________________________________________________________________________________
(1)_ THIÊN QUÝ cũng như THIÊN ẤT, ñều là chất nước, tức là huyết, là kinh nguyệt. ðàn bà chủ về việc sinh ñẻ, thuộc ÂM, mặt
trăng cũng thuộc âm. Mặt trăng có khi tròn khi khuyết, nên Thiên quý cũng theo ñó mà ñúng kỳ tiết ra, nên gọi là KINH
NGUYỆT.
(2)_ THÁI-XUNG : nhâm mạch là 2 thứ mạch thuộc kỳ kinh
(3)_ Hai mạch này ñều phát sinh từ Tiểu Phúc, do bụng dẫn lên làm một nơi ñể chứa kinh huyết gọi là HUYẾT HẢI – Nhâm
mạch chủ về ràng buộc bào thai, Xung-mạch chủ về huyết hải – Giờ 2 mạch ñều ñã thông, nên kinh nguyệt mới ñúng kỳ
xuống mà thụ thai.
(4)_ CHÂN NHA tức là một thứ răng thực, răng mọc sau nhất, chân nó rất sâu – THẬN KHÍ : là một thứ khí do Thận sinh ra –
Khí sinh ra bởi TINH, cho nên Thiên quý ñến trước rồi Thận khí mới ñiều hòa ñầy ñủ ; ñến lúc ñó chân-nha mới mọc.
Lại án : con gái sinh theo số 7 như trên, 7 thuộc về số của THIẾU DƯƠNG – Con gái thuộc Âm, mà tính theo số Dương ñó
là trong Âm có Dương (trung Âm hữu Dương).
(5)_ Mạch của kinh Dương Minh dẫn lên mặt, vòng lên ñầu tóc ; cho nên ñến lúc suy thời vẻ mặt thành ra khô khan và tóc rụng
– Phàm khí thuộc về Dương mà huyết mạch thuộc về Âm, cho nên về con gái thời mạch suy trước mà con trai thời khí suy
trước.
Lại án : ñường mạch của kinh Túc Dương Minh hợp với 2 mạch XUNG-NHÂM, vòng qua rốn mà ñi lên – Nên chi khí Xung-Nhâm
ñã hư thời Dương Minh cũng phải hư.
(6)_ Mạch của 3 kinh Dương ñều dẫn lên ñầu, ñến khi mạch ñó ñã suy thời vẻ mặt tất phải khô mà tóc tất phải bạc.
(7)_ ðỊA ðẠO : Tức là những mạch thuộc về hạ bộ - Bộ phận dưới ; Lại như thiên TAM BỘ CỮU HẬU nói :
“hạ bộ tức chỉ kinh
Túc Thiếu Âm THẬN. Thiên quý chứa ở Thận, ñến khi Thiên quý hết, tức là các ñường mạch của Túc Thiếu Âm thuộc về bộ
phận dưới không thông, do ñó mới thân thể hao mòn mà không có con.”
(8)_ “TÁM” là số của Thiếu Âm ; con trai vốn là Dương mà lại tính theo Âm số, ñó là trong Dương có Âm.
(9)_ LINH KHU KINH nói : “
Xung mạch, Nhâm mạch ñều phát sinh từ trong “BÀO” , dẫn lên phía trong “PHÚC” bên hữu phúc
dẫn lên họp ở Yết hầu, chẽ ra dưới miệng và chung quanh môi – Người huyết khí ñầy thịnh thời tràn tới ngoài da, làm nóng
trong thịt. Người thịnh riêng thời về huyết thống tới ngoài da, mọc thành lông nhỏ. Người ñàn bà khí có thừa mà huyết thời
thiếu (vì thường tiết ra nguyệt kinh) ; khiến 2 mạch Xung-Nhâm không ñầy ñủ ở chung quanh miệng nên mới không có
râu”.
Án : Thiên quý tức là ÂM TINH, cho nên tinh khí của con trai cũng gọi là Thiên quý. Như VƯƠNG BĂNG nhận Thiên quý là huyết,
thời Thiên quý của con trai cũng là huyết hay sao ? thuyết ñó không ñúng.
(10)_ Thận là nơi gốc của sinh khí – Con trai suy về bên Khí trước, nên khi Thận-khí suy thời tóc rụng răng se.
(11)_ CAN do THẬN sinh ra (tức Thủy sinh Mộc). Thận-khí suy cho nên mới lây sang Can. Can chủ về GÂN, vì Can-khí suy nên
sự cử ñộng của gân phải yếu. Thận chủ về XƯƠNG ; giờ gân với xương ñều suy, cho nên toàn thân mới mõi mệt.
(12)_ ðoạn này nói rõ thêm cái nghĩa Thiên quý của Tiên thiên, phải nhờ sự giúp ích do tân-dịch cùa Hậu-Thiên, vì 5 vị vào TỲ
ñều dẫn tới cái nơi sở thích của nó. Thận là thủy tạng, thu hút và chứa các chất tinh-dịch của 5 Tạng rồi lại tán bố ra. Chất
ấy dẫn lên TÂM, hóa sắc ñỏ thành ra máu, máu ấy dẫn tới 2 mạch Xung-Nhâm làm thành cái biển chứa kinh huyết ñể nuôi
cơ nhục và mọc ra tóc lông. Cho nên về bên con trai, khi thiên-quý ñã ñến thời tinh khí ñầy tràn, hóa ñỏ làm ra máu dẫn ra
Xung-Nhâm mà mọc râu ria. Còn bên con gái, khi Thiên quý ñến thì kinh nguyệt ñúng kỳ dẫn xuống. Vậy Tinh với Huyết ñều
gọi là THIÊN QUÝ.
Án : kinh nói :
” con ñường của VINH HUYẾT chủ ở sự ăn uống. Thức ăn vào VỊ rồi truyền lên PHẾ, tràn ngập ở bên trong, phân
tán ra bên ngoài. Cái chất tinh khiết hơn nhất thường lưu thông ở trong kinh (lạc) mạch ñể thấm nhuần và nuôi nấng cơ
nhục. Con trai tám lần tám, con gái bảy lần bảy, cái số của Trời-ðất ñã ñến cực ñộ, cho nên Thiên quý hết. Nhưng cái chất
Huyết dẫn ở trong kinh mạch vẫn không hết. Cho nên người già cả ăn uống ñược, Tỳ-Vị khỏe, thời gân xương vẫn còn
mạnh”.