có vị cứu tinh giúp đời yên dân. Vì vậy, trẫm phải tập hợp nghĩa binh, xông
pha trận mạc: giúp Hoàng đại huynh rong ruổi việc nhung mã, dựng nên
nhà Tây Sơn; dẹp Xiêm-la- Chân-lap ở phía Nam; hạ thành Phú Xuân, tiến
ra Thăng Long đập tan nhà Trịnh, dựng lại nghiệp Lê chung một mối riềng.
Thế nhưng, Lê Tự Quân đã đi ngược ý trời lòng dân, rước giặc ngoại
bang về giày xéo quê cha đất tổ. Nay trẫm lên ngôi Hoàng đế, đặt tên hiệu
là: “Quang Trung”, quy hợp thần dân trăm họ quyết quét sạch giặc Thanh
xâm lược, lấy lại Thăng Long, cứu dân thoát khỏi nạn nước lửa. Rồi trả
nước cho họ Lê, trả đất cho Hoàng huynh, ung dung áo gấm, hài thêu,
ngắm cảnh yên vui trong trời đất!”...
Lời chiếu vừa dứt, tiếng tung hô của tướng sĩ lại vang lên: “Thánh
thượng Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”. Và được nhà vuamiễn lễ, cả hội quần thần
đều bình thân hướng ngoại một số tiết mục đặc trưng của các dân tộc: Tây
nguyên, Kinh, Chàm, múa cờ của nghĩa binh, múa kiếm của nữ binh và
đồng diễn võ thuật. Kết hợp với: trống chiêng, ca trù, hò mái nhì…cùng
hòa tấu ngân vang, rồi ngưng bặt đợi lệnh.
Nhà vua tay phất kỳ, tay trường kiếm, hô vang khẩu lệnh: “Truyền tiến
quân!”.
Tiếp lệnh truyền, cả hội quần thần binh sĩ đồng hô vang “Tiến!”. Nữ
tướng Anh Xuân phi thân lên bành voi thứ hai, phất cờ lệnh; chín tiếng đại
bác khai khẩu từ hai khẩu đại bác đặt cạnh sườn núi để thủ giữ thành Phú
Xuân, nổ vang rền…Trống trên đài cao thúc giòn giã theo bước chân rầm
rập của đoàn quân đi, tinh kì chuyển động theo năm khẩu đại bác dẫn đầu
năm hàng dọc của hai đạo quân thủy-bộ đồng tiến. Vua Quang Trung cùng
Nữ tướng Anh Xuân cưỡi voi đi giữa trùng trùng điệp điệp đoàn quân tiến
ra phía trước…Xuống hết chân núi, chẻ thành hai hướng: thủy quân gặp
cửa Bạng là căn cứ Hải quân, tiếp quản tàu chiến, ngắm hướng phương bắc
lướt sóng bạt gió; bộ binh gồm có (tượng binh, kỵ binh và nữ binh) vượt
đường thiên lý mã thẳng tắp.