lại gần họ. Kẻ ăn mày lang thang trên các đường phố ăn thức ăn với lũ chó
hoang. Con có thể ngăn chặn được những chuyện như thế không? Con có
thể đưa những người hủi về với đồng loại? Cho kẻ ăn mày một cuộc sống
ấm no? Làm cho sư tử và heo rừng vâng theo mệnh lệnh của con không?
Chẳng phải là cái người đã tạo nghiệp chướng cho muôn loài là người khôn
ngoan hơn con sao? Vì thế mà cha khẩn thiết van xin con đừng làm cái điều
mà con đang định làm. Cha xin con hãy trở về cung điện mặc lên người bộ
quần áo của hoàng đế, đội chiếc vương miện mà cha sẽ đặt lên đầu con,
cầm thanh quyền trượng mà cha sẽ trao vào tay con. Còn về những giấc mơ
ấy, đừng nghĩ về nó nữa. Những bất công trong cuộc đời này quá lớn so với
sức chịu đựng của một con người và nỗi đau khổ của chốn nhân gian này
quá nặng nề đối với một trái tim.”
“Cha nói thế trong chính ngôi nhà của Chúa hay sao?” Nhà vua hỏi, đi lướt
qua vị giám mục, thong thả trèo từng bước lên cung thánh, đứng trước
tượng Chúa Jesus.
Chàng đứng nghiêm trang trước tượng Chúa; tay phải Chúa cầm một chiếc
li vàng đựng rượu lễ óng ánh sắc vàng, tay trái Người cầm một lọ nhỏ đựng
dầu thánh. Vua quỳ xuống trước tượng Chúa, những ngọn nến sáng lên rực
rỡ trong điện thờ dát toàn ngọc quý, khói của một nén hương trầm cuộn nhè
nhẹ bay lên quanh những vòng hoa tươi trang trí cái mái hình vòm cuốn cao
cao trong thánh đường. Vua cúi đầu cầu nguyện và các vị linh mục trong
những chiếc áo lễ hồ cứng lặng lẽ rút ra ngoài.
Chợt có tiếng ồn ào kinh động từ ngoài đường phố vọng vào, rồi một đoàn
kị sĩ quý tộc gươm giáo sáng lòa, đội những chiếc mũ có đính lông chim
xông vào giáo đường: “Kẻ mộng mị ngu xuẩn đâu rồi?” Họ quát ầm lên.
“Vua đâu – cái kẻ ăn mặc như một đứa ăn mày ấy đâu rồi? Thằng lỏi ấy chỉ
mang đến nỗi nhục cho vương quốc của chúng ta.”
Vị vua trẻ lại cúi đầu cầu nguyện, khi cầu nguyện xong chàng đứng dậy,
quay sang nhìn mọi người với ánh mắt buồn bã.