Nguyễn Đức Trạch) là không bị say sóng. Đứa con nhỏ nhất của tôi, lúc đó mới tám tháng tuổi (tên
Nguyễn Đức Thông và sau này khi viết văn lấy bút danh là Nguyễn Đông Thức), nằm li bì khiến tôi
phải ngồi một chỗ không dám đi đâu. Thằng Đức Trạch đi lãnh thức ăn, đồ hộp cho mọi người, nhưng
đa số đều không ăn được vì cứ nôn mửa cả ngày.
Con Nghi Xương, đứa con gái thứ hai lúc ấy mười hai tuổi, cũng không say sóng. Nó theo các hành
khách khác đi viếng khắp tàu, qua các cabin và xuống dưới hầm tàu chỗ chứa thức ăn, thấy treo đầy
những bò, trừu, gà vịt ở phòng đông lạnh và nghe nói những thức ăn ấy đã được giữ lạnh cả sáu, bảy
tháng, mỗi khi cặp bến lớn, tàu mới đổi thức ăn hoặc lấy thêm thức ăn khác. Nó kể lại cho tôi nghe và
nói kinh sợ không dám ăn những món thịt trên tàu nữa mà ăn toàn fromage hay đồ hộp. Con bé thật kỳ
lạ, ngay từ lúc ấy đã sợ hãi khi phải ăn thịt những con vật đã bị giết chết và treo cả năm, sáu tháng.
Sau nầy nó thường ăn chay và có lòng tín ngưỡng đạo Phật, dọn đường đi tu. Còn tôi trong khi cứ phải
ngồi ẵm cu Thông trên boong tàu, tôi chỉ đưa mắt ngắm trời biển mênh mông. Trên đất liền, con tàu to
như một lâu đài, vậy mà ra biển cả nó còn bé tí không nghĩa lý gì, không có gì để mình tin tưởng được
là nó đủ vững chắc để có thể chống trả nổi những phong ba bão táp...
Tôi ngồi nhìn hết trời nước bao la đến quan sát bọn lính Pháp. Chúng cũng say sóng nằm la liệt và
khi qua cơn nôn mửa, tỉnh táo lại, chúng thường tập hợp trên boong tàu vào buổi chiều mát để bày
những trò chơi giải trí, vui cười đùa giỡn cho không khí đỡ buồn tẻ. Các con tôi cũng hay thích thú
đứng nhìn họ chơi. Trong những trò chơi của bọn lính Pháp, có trò bịt mắt tìm người nào đánh mình.
Người bị bịt mắt đứng giữa một vòng người, rồi một người trong vòng tiến ra đập vào vai người bịt
mắt, thật lanh, rồi chạy trở lại chỗ cũ, trong khi người bị bịt mắt giở ngay cái khăn che mắt ra và nhận
diện kẻ đã đánh mình, nếu trúng thì người ấy phải bị thay. Tôi thật buồn cười thấy có nhiều anh lính
năm lần bảy lượt vẫn chưa nhận diện được kẻ đã đánh mình và cứ bị đứng ở giữa vòng, mặt mày ngố
ngố làm sao ấy. Trong lúc ấy bỗng có một người Việt Nam là hành khách trên tàu, từ khi lên tàu đến
lúc ấy tôi chỉ thấy anh ta cắm cúi đọc sách, đến giờ ăn thì đi lãnh cơm, không hề trò chuyện với ai.
Thanh niên ấy trạc hai mươi mấy tuổi, mặc áo sơ mi trắng và quần tây xám, tóc húi cua, mặt tròn có
cái thẹo trên trán, da ngăm đen và có vẻ khỏe mạnh. Anh ta đứng lên xin bọn lính cho được cùng chơi,
bằng một thứ tiếng Pháp có học hẳn hoi. Bọn Pháp chấp thuận ngay và anh xin được làm người bị bịt
mắt. Thằng Đức Trạch nói với tôi: “Mẹ coi kìa, bọn lính da trắng ngó vậy mà ngu quá! Tụi nó lúc nào
cũng không bằng anh lính da đen, anh ta lanh lợi ghê đi, một lần bị bắt vô là chỉ trúng ngay tên nào đã
đánh mình. Bây giờ xem thử cái ông Việt Nam này có lanh lợi và thông minh như ông lính da đen kia
không”. Quả nhiên anh chàng Việt Nam này cũng không kém phần thông minh, lanh lợi. Hễ bị bắt vào
vòng là chỉ đúng ngay kẻ nào đã đánh mình, không cần đến lần thứ hai. Bọn lính da trắng khi đánh ai
rồi chạy về chỗ, hoặc đứng sai hàng hoặc nét mặt không giữ được tự nhiên, rất dễ bị phát hiện... Sau