ngoài sáu mươi, vì tóc chỉ điểm sương, nét trán chưa nhăn, âm hưởng giọng nói vẫn thanh tao, và điều
đặc biệt là trí nhớ của bà vẫn còn sắc sảo thể hiện qua những câu trả lời rất gọn gàng mạch lạc trong
cuộc mạn đàm với tôi sau đây...
Trong lúc hàn huyên giao đãi, tôi hỏi thăm về nhà thơ lão thành cũng là nhà báo kỳ cựu Hồng Tiêu.
Bà Tùng Long nhân lúc vui chuyện, đọc cho tôi nghe hai câu đối của nhà thơ Lam Giang tặng vợ chồng
bà:
BẠCH VÂN thiên thượng cô phi ảnh
Dao vọng HỒNG TIÊU luyến ái thê
Xin lược dịch nôm na:
Mây trắng trời xanh bay lẻ bóng
Sáo ngọc vang xa nhớ vợ hiền
Sau đó, tôi mời Bà Tùng Long cùng vào cuộc trao đổi về tâm sự của bà:
- Thưa bà, vào thời điểm 1936, người phụ nữ Việt Nam đều có xu hướng làm vợ làm mẹ, và
phần đông đều mơ ước được làm dâu trong gia đình tư sản, để về sau làm chủ gia sản lớn, sống
trong nhung lụa. Với học lực và dung mạo trên trung bình, bà dễ dàng bước vào ngưỡng cửa giới
thượng lưu. Sao bà lại thích theo nghề viết văn làm báo?
Bà Tùng Long:
- Tôi viết văn là chịu ảnh hưởng của cha từ khi tôi còn nhỏ. Thuở ấy, cha tôi cộng tác với các
báo Hữu Thanh, Nam Phong, tôi đọc các tạp chí ấy khi còn học tiểu học ở Đà Nẵng. Và lên trung học,
tôi được đọc thêm sách của Tự Lực văn đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, mộng viết văn của tôi ấp ủ từ đó.
Còn tôi làm báo thì do chồng tôi khuyến khích. Đó là khi cha tôi đổi vào Sài Gòn, tôi theo học
trường trung học Áo Tím, chồng tương lai của tôi lúc bấy giờ là nhà báo Hồng Tiêu, đang là chủ bút
nhật báo Sài Thành. Anh đã dạy (hàm thụ) nghề viết cho tôi, gợi ý cho tôi viết báo, rồi giao tôi phụ
trách trang Phụ Nữ của báo Sài Thành...
- Thưa bà, thời bấy giờ đang trong xã hội phong kiến, mọi người còn quan niệm “Làm báo nói
láo ăn tiền” cho nên những ai lăn lóc vào nghề này dễ bị gia đình khinh rẻ. Chẳng hay trường hợp
của bà có ngoại lệ không?