CHƯƠNG 4: Vui buồn nghề văn - nghề báo
TÔI TÌM Ở ĐÂU ĐỀ TÀI ĐỂ VIẾT?
Trong hai mươi năm tôi làm báo và viết văn, người ta nói đùa là tôi đã viết 1001 truyện ngắn. Còn
tiểu thuyết dài và vừa thì gần cả 100 bộ. Sự thật thì tôi đã xuất bản độ gần 70 bộ truyện dài và truyện
vừa. Truyện đã đăng báo nhưng chưa in thành sách vẫn còn khoảng chục bộ. Truyện nhi đồng viết vì
yêu cầu của các nhà xuất bản nhi đồng khoảng vài chục truyện. Còn truyện ngắn cũng vài trăm cái.
Vì vậy người ta mới lấy làm lạ, tôi lấy đề tài từ đâu mà viết được nhiều như vậy? Lấy đề tài ngoài
đời mà mắt tôi thấy, tai tôi nghe khi tôi bắt đầu hiểu. Quanh tôi có bao nhiêu chuyện đáng để ý, đáng
suy nghĩ và đáng nhớ. Tiếp đó là những chuyến đi xa, đi khắp miền Nam Trung bộ từ Huế trở vô. Từ
khi còn nhỏ tôi đã biết quan sát, cái gì không hiểu đã có cha tôi hướng dẫn, dạy dỗ. Rồi cuộc sống ở
các trường học, tiếp xúc với bạn bè. Đã tiếp xúc, lẽ dĩ nhiên là có va chạm, có cách đối phó, có những
suy nghĩ gây mầm, thu góp hành trang để đi vào đời sau này.
Xã hội của tuổi trẻ thời học trò có nhiều gay cấn, biến động không ngừng và chính tình cảm con
người với con người nảy sinh vào thời kỳ này rất quan trọng. Tình bạn, tình thầy trò, tiếp nối với tình
yêu thương ở gia đình, tình phụ tử, mẫu tử, huynh đệ đã cho tôi thêm một mớ hành trang để đi vào đời
viết văn. Nói như Victor Hugo, con người nào mà trái tim rung động, linh hồn nhạy cảm mới có thể
cầm bút viết dễ dàng. Nếu trái tim chúng ta như một khối hình ảnh thì rồi cũng có một lúc những điều
ta tiếp nhận được sẽ đầy ắp, một lúc nào đó bị rung động sẽ trào ra ở ngọn bút hay cây cọ, tiếng
nhạc...
Lúc nhỏ, thấy thân phụ tôi viết bài, làm thơ, tôi thường nghĩ những điều ấy một ngày nào đó tôi có
thể làm được không? Làm một nhà văn chắc là thích thú lắm? Nhưng cha tôi viết văn là chỉ để dùng thì
giờ nhàn rỗi vào chuyện giải tỏa tâm hồn, chứ thật sự cha tôi chỉ là một công chức ngày hai buổi đi
làm ở công sở.
Cha tôi thường nói với tôi: “Đây là một cách giải trí lành mạnh, một cách nuôi dưỡng trí óc, tâm
hồn trong sáng, chứ nghề viết văn ở xứ ta ở thời buổi này (vào những năm 1920-1925) không thể nuôi
người viết một cách tự do và đầy đủ. Vào thời kỳ lệ thuộc ấy, muốn viết những gì mình cảm nhận,
những gì mình muốn nói, không phải là chuyện dễ. Viết văn để kiếm ăn ở thời kỳ ấy đều phải tùy thời,
thậm chí phải đánh mất tự do của mình là khác”.
Khi còn đi học, tôi cũng thử viết những truyện ngắn, tập dịch những bài hay của các nhà văn Pháp,