và thấy làm việc ấy không mấy khó khăn. Viết lách đối với tôi cũng không đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều
công sức. Tôi làm công việc ấy dễ dàng như khi tôi viết những bài luận văn hay Pháp văn để góp cho
các giáo sư, mà lần nào tôi cũng nhận được những lời khen hay những điểm lớn.
Những cuộc thi văn chương chung với các trường Pháp như Chasseloup Laubat (bây giờ là Lê Quý
Đôn), trường Marie Curie, trường Sư phạm (Ecole Normale), tôi vẫn được giải thưởng cao nhất. Vì
vậy đặt bút viết khi mới mười sáu, mười bảy tuổi, tôi vẫn không dùng giấy nháp, y như lúc tôi cầm bút
viết báo sau này. Một thiên phú chăng? Nếu vậy thành thật cảm ơn các đấng sinh thành đã cho tôi cái
thiên phú ấy.
Thật ra viết đối với tôi không phải là khó, vì ngay từ nhỏ tôi đã quen viết. Mới chín tuổi tôi phải xa
nhà để ra Đà Nẵng học, vì vậy mỗi tuần cha tôi bắt buộc tôi phải viết một bức thư về nhà, không được
dưới bốn trang giấy học trò. Mới chín tuổi tôi bới đâu ra để mà viết dài dòng như vậy ngoài những lời
thăm hỏi thường lệ? Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận thấy đây cũng là một cách cha tôi luyện cho tôi viết văn,
mà lúc ấy tôi không nghĩ đến.
Cha tôi cho tôi một cái dàn bài phải viết như thế nào, viết có thứ tự và có những đề tài để viết. Cái
nào phải viết trước, cái nào phải viết sau. Và luôn luôn đọc kỹ thư cha tôi để trả lời những câu cha
hỏi. Đó cũng là một cách dạy tôi cách viết thư và có chuyện để nói dông dài mới chiếm được bốn
trang giấy.
Chẳng hạn cha tôi hỏi về sức khỏe bà ngoại tôi, bà tôi tuần này buôn bán ra sao, có thâu hàng thêm
không? Bà tôi có thường đi chùa không, và khi bà tôi đi vắng, ở nhà tôi có coi cửa hàng và bán những
thứ lặt vặt cho bà tôi không? Rồi đến chuyện tôi đi học. Bạn bè của tôi có những ai? Tôi có bạn để
cùng đến trường không? Trường cách nhà xa không? Tôi đi bộ mỏi chân không? Tôi có tiền ăn quà
bánh không? Tôi làm gì những ngày chủ nhật? Có đi chơi xa không? Tôi có gì vui hay buồn phải kể
cho cha tôi biết. Rồi đến chuyện học hành trong lớp có theo kịp bạn bè không? Cha tôi còn nhắc có khi
nào tôi quên gia phong, thốt lên lời chửi rủa một ai đó không? Thí dụ như một người bạn làm mình bực
mình hay một người nghèo cứ luẩn quẩn bên mình để xin tiền... Với bao nhiêu lời dặn, với bao nhiêu
câu hỏi, tôi trả lời còn khó hơn làm một bài luận văn. Thư nào tôi quên một câu hỏi là thư sau bị rầy
và bị nhắc lại.
Bây giờ ngồi viết lại những trang nhật ký này tôi thấy cách cha tôi huấn luyện viết thư cũng là một
cách tập cho tôi viết văn. Mà các bạn biết không? Tôi ở Đà Nẵng với bà tôi cả ba năm, một tháng viết
bốn lá thư. Lần lần tôi quen, tôi kể đủ chuyện cho cha tôi nghe.
Sau Đà Nẵng, tôi còn ra Huế học ở trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng phải viết thư về nhà.