MAS tự do hóa việc thâm nhập vào khu vực ngân hàng nội
địa bằng cách cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài mở
thêm chi nhánh và các ATM. Nó tháo bỏ các hạn chế quyền sở
hữu của nước ngoài về các cổ phần ngân hàng nội địa, trong khi
yêu cầu các ngân hàng thành lập các ủy ban trong hội đồng
quản trị, rập khuôn những cách tổ chức tương tự ở nhiều ngân
hàng Hoa Kỳ. Các ủy ban này xem xét việc đề cử vào hội đồng
quản trị và những chức vụ quản lý chủ chốt được bổ nhiệm để
đảm bảo những người được bổ nhiệm là có năng lực để trông coi
quyền lợi của tất cả các cổ đông, chứ không phải chỉ của các cổ
đông đang nắm quyền kiểm soát.
Các ngân hàng tin rằng sự nới tay trong việc giám sát của
MAS sẽ khiến họ đổi mới hơn nữa trong việc đưa vào hoạt động
những sản phẩm tài chính mới. Lẽ ra, chúng tôi nên thực hiện
những thay đổi này sớm hơn. Tuy nhiên, chỉ sau khi MAS chứng
tỏ hết sức mạnh của hệ thống của nó để khắc phục khủng hoảng
tài chính năm 1987 và 1997 – 1998, tôi mới có đủ niềm tin để
đến gần hơn tới trạng thái mà “những gì không bị cấm là cho
phép”. Đường lối thận trọng đã giúp chúng tôi khắc phục được
khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 – 1998. Các ngân hàng của
chúng tôi vững mạnh và không bành trướng quá mức. Không
có sự thổi phồng trong thị trường chứng khoán của chúng tôi.
Chúng tôi phải mất 30 năm kể từ lúc mở thị trường đồng đôla
châu Á đầu tiên vào năm 1968 để thiết lập uy tín là một trung
tâm tài chính quốc tế được quản lý một cách đúng đắn.
Tháng 7/1997, khi khủng hoảng tài chính bùng nổ ở Đông Á
với sự rớt giá của đồng baht Thái, những thảm họa đã phá hủy
tiền tệ, thị trường chứng khoán và các nền kinh tế khu vực,
song không có ngân hàng nào ở Singapore bị ảnh hưởng. Các
nhà đầu tư vội vàng rút khỏi những thị trường mới nổi mà