chiếm hữu đất của những người sinh sống trong những ngôi nhà
bất hợp pháp.”
Sau đó, tôi bổ sung luật cho phép chính phủ có quyền mua
các vùng đất dùng cho mục đích công cộng với giá khi ấy được
ấn định vào ngày 30/11/1973. Tôi nhận thấy không có lý do gì
để những khu đất tư nhân có thể kiếm lợi từ sự tăng giá đất do
sự phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng mang lại. Khi đất nước
thịnh vượng hơn, chúng tôi đã chuyển giá cố định theo giá của
tháng 1/1986, tháng 1/1992 và sau đó là tháng 1/1995, gần với
giá trên thị trường hơn.
Số người muốn mua các căn hộ HDB mới tăng nhanh, từ
khoảng 3.000 người vào năm 1967 đã lên đến 70.000 người vào
năm 1996. Hơn một nửa số người mua nhà vào thập niên 90 đã
hoàn toàn sở hữu ngôi nhà của họ, nhưng họ lại muốn nâng cấp
nhà lớn hơn. Vào năm 1996, chúng tôi đã xây dựng những căn
hộ HDB giá 725.000 đôla, và chỉ có 9% trong số này được thuê,
còn lại đều được mua, với giá dao động từ 150.000 đôla cho các
căn hộ nhỏ nhất có ba phòng đến 450.000 đôla cho các căn hộ
lớn hơn.
Thỉnh thoảng tôi đã can thiệp trực tiếp, nhằm tạo sự đa dạng
cho các căn hộ. Như vào tháng 5/1974, tôi đã yêu cầu giám đốc
điều hành phải nâng cấp và thay đổi các thiết kế của chúng
cũng như tạo một phong cảnh cho các thành phố mới. Bằng
cách khai thác các điểm đặc biệt của từng vùng, sự đa dạng về
kiến trúc đã tạo nên những nét đặc trưng cho mỗi thành phố
mới.
Trong đầu thập niên thứ nhất từ năm 1965, nhiều khu nhà
mới đã được xây ven các khu trung tâm, ở Tiong Bahru,
Queenstown, Toya Payoh, và MacPherson. Sau năm 1975,
chúng được xây ở vị trí xa hơn, tại những nơi khi đó còn là vùng