Chúng tôi còn thành lập hai cơ quan chuyên trách thu hút
nhân tài từ Ấn Độ và các nước trong khu vực, và thành công
trong lãnh vực thu hút tài năng người Ấn nhiều hơn người
Malay. Có quá nhiều đặc quyền dành cho các bumiputra và
pribumi (người Malay và người Indonesia bản xứ) ở quê hương
để họ xem xét việc ra đi.
Một hiện tượng mới là số người Caucasia cưới vợ Singapore
đang tăng lên, nhất là những phụ nữ có trình độ cao. Đàn ông
Singapore có trình độ sợ cưới họ, song những người Caucasia có
trình độ thì không. Đa phần những phụ nữ này bị buộc phải di
dân do luật lệ của chúng tôi chỉ cho phép một công dân nam
Singapore đưa một cô dâu nước ngoài nhập cư vào, nhưng
ngược lại thì không được. Chúng tôi chỉ chấp nhận nếu người
chồng ngoại quốc có nghề nghiệp ổn định. Chúng tôi thay đổi
chính sách này vào tháng giêng 1999, đây là chính sách sẽ bổ
sung đặc điểm mang tính toàn cầu của Singapore. Hơn nữa, một
số đàn ông du học của chúng tôi đã cưới các cô gái người
Caucasia, người Nhật và người châu Á khác mà họ gặp ở trường
đại học. Con cái của họ là phần bổ sung quý báu vào nguồn nhân
tài của chúng tôi. Những rào cản hoàn toàn cổ hủ về hôn nhân
dị chủng đã được xoá bỏ nhờ vào sự hoà lẫn sắc tộc khi người ta
đến du lịch hoặc làm việc ở những quốc gia không phải quê
hương họ. Chúng tôi phải thay đổi thái độ và tận dụng những gì
một thời bị xem là tài năng nước ngoài và không thể bị đồng
hóa. Chúng tôi không thể cho phép những định kiến cổ hủ này
cản trở sự phát triển dưới hình thức trung tâm thương mại,
công nghệ và dịch vụ quốc tế của chúng tôi.
Bên cạnh chủ nghĩa Bảo thủ tự nhiên, vấn đề khác là nỗi lo sợ
về cạnh tranh công việc. Cả những người có chuyên môn lẫn
những người có bằng cấp thấp hơn đều chống đối việc thu hút