những kẻ bài châu Á, nên họ quyết định chấp nhận những di
dân châu Á, đi ngược lại chính sách “chỉ dành cho người da
trắng” trong hơn một thế kỷ qua. Canada, Úc và New Zealand là
những đất nước rộng lớn có dân số ít chẳng mấy chốc đã đi theo
trào lưu này, ngược với trước đây họ ngăn cấm việc nhập cư của
người châu Á. Khi họ thay đổi điều luật cho phép người châu Á
có trình độ cao nhập cư, chúng tôi đã mất đi một phần lớn
nguồn nhân lực người Hoa và người Ấn từ Malaysia. Nhiều
người Malaysia gốc Hoa và gốc Ấn có tay nghề thuộc tầng lớp
trung lưu đã di dân vĩnh viễn sang Úc, New Zealand và Canada.
Ngày càng ít người nước ngoài đến Singapore học hành hơn. Giờ
đây họ đã có những trường đại học của riêng họ, và nhiều người
có đủ khả năng đi học ở Úc, New Zealand, Anh, Hoa Kỳ và
Canada.
Không phải mọi nhà lãnh đạo đều chia sẻ quan điểm với tôi
về những hậu quả của việc thay đổi chính sách này. Vào đầu
những năm 70, khi tôi nói với thủ tướng Malaysia Tun Razak
rằng Malaysia đang gánh chịu nạn chảy máu chất xám và đang
để mất đi nhiều người Hoa và người Ấn có trình độ di dân sang
Úc và New Zealand, ông ta đáp “Đây không phải là nạn ‘chảy
máu chất xám’, mà là ‘chảy máu những rắc rối’, nó cuốn khỏi
Malaysia những rắc rối”.
Nạn thiếu hụt nhân tài của chúng tôi càng trở nên tồi tệ từ
cuối những năm 70, khi khoảng 5% những người có trình độ ra
đi. Có quá nhiều học sinh giỏi của chúng tôi trở thành tiến sĩ. Có
nhiều người di dân vì họ cảm thấy họ không thành đạt với trình
độ chuyên môn mà họ có được. Một số sinh viên du học ở Úc,
New Zealand và Canada đã nhập cư ở đó bởi vì nghề của họ ở
Singapore không thăng tiến được. Không giống người Nhật và
người Hàn Quốc, người Singapore giỏi tiếng Anh và đối phó với