mặt Bộ trưởng Tài chính ở Singapore”. Tan Siew Sin phản ứng
lại: “Nếu hệ thống ngân hàng trung ương là một hệ thống kém
cỏi, thì rõ ràng đó là sai lầm mà tất cả các nước công nghiệp hóa
của thế giới phương Tây và tất cả các nước đang phát triển đều
phạm phải… Tất cả các quốc gia độc lập trên thế giới đều có
ngân hàng trung ương hoặc đang trong tiến trình thiết lập ngân
hàng trung ương.” Về sau, tại nghị viện, Tan nói rằng chia tách
tiền tệ là tốt nhất, bởi vì không giống như những ngày trước
đây, bây giờ ngân hàng trung ương của một quốc gia là vũ khí
mạnh của một Bộ trưởng Tài chính trong các chính sách tiền tệ
và tài chính của ông ta.
Cả hai Bộ trưởng Tài chính đều công bố rằng họ sẽ giữ đồng
tiền của họ ở mức hai silinh và bốn xu cho mỗi đôla, hoặc là
0,290299 gam vàng. Họ thỏa thuận về “tính có thể hoán đổi”
của hai đồng tiền trên, nghĩa là chấp nhận đồng tiền của nhau
làm phương tiện thanh toán và chuyển tiền về nước thông qua
việc đổi lấy một lượng tiền tương đương bằng đồng tiền chuyển
đổi được. Hai đồng tiền của chúng tôi tiếp tục được hoán đổi
nhau từ năm 1967 cho đến khi bị chấm dứt vào tháng 5/1973
theo yêu cầu của Malaysia. Vào tháng 1/1975, đồng đôla
Malaysia, tức là đồng ringgit rớt giá nhẹ xuống còn 0,9998 đôla
Singapore. Đến năm 1980, nó bị sụt giá mạnh gần 5 xu so với
đồng đôla Singapore, và đến năm 1997 giá trị của nó không
bằng 50 xu Singapore. Các Bộ trưởng Tài chính và các giám đốc
ngân hàng trung ương Malaysia đã thực hiện những chính sách
tiền tệ và tài chính lỏng lẻo hơn Singapore. Không chi tiêu vượt
quá thu nhập quốc gia là nguyên tắc chủ đạo mà không một Bộ
trưởng Tài chính Singapore nào được xa rời trừ phi có suy thoái.
Sau khi Singapore tách khỏi Malaysia vào năm 1965, chính
phủ liên bang do UMNO kiểm soát thúc ép sớm lấy tiếng Malay