bảo cho quan hệ trôi chảy. Tôi đã va chạm với chính sách “Pháo
đài châu Âu” của những người ủng hộ bảo hộ mậu dịch vào
những năm 70 đối với các mặt hàng xuất khẩu của chúng tôi.
Vào tháng 10/1977, tôi đến Brussel để gặp Chủ tịch Ủy ban châu
Âu, Roy Jenkins, người mà tôi đã từng quen biết từ những năm
60, khi ông ta còn là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trước đó, tôi đã
viết thư nói với ông ta rằng sự áp đặt của họ đối với Singapore
trong các quy tắc chính sách thuế quan ưu đãi chung (GSP – the
General Streme of Preferences – chính sách cho phép các nước
đang phát triển được miễn thuế nhập khẩu ở một mức độ giới
hạn)
đã gây nhiều khó khăn cho các mặt hàng xuất khẩu của
chúng tôi như máy tính điện tử, dù, máy chiếu và ván ép. Gần
đây, ngay cả mặt hàng hoa tươi cũng đang gặp phải những rào
cản từ phía những người trồng hoa ở Hà Lan và Pháp. Tôi cũng
nói thêm là tôi đã dự trù những khó khăn sẽ xảy ra cho mặt
hàng dệt và dù, nhưng không nghĩ là máy tính điện tử và hoa
tươi cũng vướng phải. Ông Jenkins rất thông cảm và hứa sẽ xem
xét vấn đề này, nhưng ông ta đã không thể nào làm được gì cho
mặt hàng dù. Có vẻ như chúng được sản xuất ngay tại vùng
tranh cử của Tổng thống Giscard d’Estaing.
Với những ủy viên khác, tôi bàn bạc xem làm thế nào để
tránh sản xuất những sản phẩm mà các nước khối EEC coi là
“nhạy cảm” vì có khả năng gây ra tình trạng thất nghiệp dai
dẳng ở mức cao. Thật chán nản khi tôi khám phá ra rằng danh
sách này thật không có giới hạn. Bất kỳ quốc gia thành viên nào
có một chút ảnh hưởng với Brussels, khi cảm thấy có sự thiệt
hại dù nhỏ nhất cũng có thể đệ đơn yêu cầu bảo hộ và họ luôn
được chấp thuận. Tuy nhiên, EEC đã phủ nhận họ bảo hộ mậu
dịch mạnh mẽ nhất trong tất cả các khối mậu dịch. Tôi nêu ra
kinh nghiệm của Philips và Siemens, hai trong số những công ty