đa quốc gia châu Âu nổi tiếng nhất; họ xuất khẩu những mặt
hàng điện tử sản xuất tại Singapore sang châu Âu khó hơn sang
châu Mỹ và châu Á.
Tôi đưa ra hai vấn đề: thứ nhất, sự “chuyển cấp” (coi như đã
đạt được sự phát triển) dẫn đến việc tước bỏ những lợi ích của
GSP không nên vội vàng áp dụng đối với Singapore, và thứ hai,
những biện pháp bảo hộ nhằm hạn chế các mặt hàng nhập khẩu
không chắc có hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề của EEC.
Tôi đã cố gắng thuyết phục Jenkins, với cương vị là chủ tịch EEC,
rằng ông ta nên chính thức hóa mối quan hệ đầy triển vọng giữa
EEC và Asean trong một hiệp ước hợp tác kinh tế, và rằng một
chuyến viếng thăm đến các quốc gia Asean sẽ đưa đến sự tán
thành của hội đồng (EEC) về mục đích này. Thay vì vậy, ông ta
lại cử Viscount Davignon, ủy viên hội đồng phụ trách về công
nghiệp. Jenkins không thích hành trình về phương Đông, nơi
những triển vọng của nó không được ông đánh giá cao. Cuối
cùng, với sự giúp đỡ của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức, Hans–
Dietrich Genscher, vào năm 1980, Asean đã thành công trong
việc đạt được thỏa thuận với EEC về một ủy ban hợp tác chung
để thúc đẩy và đánh giá các hoạt động. Tuy nhiên, các nước
Asean vẫn phải đương đầu với vô số những vấn đề về bảo hộ với
tổ chức đa thành viên này. Thuế quan và trợ cấp nông sản chống
lại các mặt hàng dầu cọ; các tiêu chuẩn y tế và an toàn, việc dán
nhãn sinh thái cùng với các tiêu chuẩn lao động và môi trường
khác đã hạn chế một cách hữu hiệu hàng xuất khẩu của Asean.
Như trường hợp của Singapore năm 1986, là một phần của
chương trình xem xét lại những đặc quyền GSP, EEC đưa ra một
hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng vòng bi của Singapore.
Các công ty đa quốc gia châu Âu không hoạt bát và năng
động bằng người Mỹ và Nhật Bản. Họ đang bỏ lỡ những cơ hội