một số trí tuệ sáng suốt nhất từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm
nhiều người từ Ấn Độ và Trung Quốc, đến những khu vực phát
triển cao, mới như thung lũng Silicon. Không một quốc gia châu
Âu hoặc châu Á nào có thể cuốn hút và hấp thu nhân tài người
nước ngoài dễ dàng như vậy. Điều này cho Mỹ một lợi thế quý
giá, giống như có một nam châm để kéo về những con người
giỏi nhất, thông minh nhất thế giới.
Phải mất một thời gian đáng kể để châu Âu công nhận tính
ưu việt của nền kinh tế thị trường tự do của người Mỹ, đặc biệt
là triết lý kinh doanh trong việc tập trung vào tỷ lệ lãi trên vốn
cổ phần. Các ủy viên ban quản trị người Mỹ bị buộc phải không
ngừng tìm cách làm tăng giá trị cổ đông thông qua tăng năng
suất và khả năng cạnh tranh. Cái giá của hệ thống thành tích
cao – phần thưởng cao này là xã hội người Mỹ bị phân hóa nhiều
hơn xã hội châu Âu và Nhật Bản. Hai xã hội này không có giai
cấp thấp tương đương như xã hội Mỹ. Nền văn hóa kinh doanh
của châu Âu coi trọng sự thống nhất và hòa hợp xã hội. Các công
ty Đức có các đại diện công đoàn trong ban quản trị của họ.
Nhưng họ lại phải trả giá là tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư
thấp hơn và giá trị cổ đông tệ hơn. Người Nhật thuê nhân công
dài hạn và đánh giá cao lòng trung nghĩa của người làm công
đối với họ và ngược lại. Mặt hạn chế là sự thừa nhân viên và mất
tính cạnh tranh.
Tuy nhiên, vào những năm 90, nhiều công ty châu Âu ghi
tên vào Sở giao dịch chứng khoán New York. Điều này đòi hỏi họ
tập trung vào lãi và giá trị cổ đông hàng quý. Việc chấp nhận
những tiêu chuẩn của Mỹ trong việc quản lý công ty là sự ca
ngợi mà những người châu Âu dành cho người Mỹ.
Miễn là kinh tế Mỹ dẫn đầu thế giới và Mỹ vẫn đi đầu trong
đổi mới và kỹ thuật thì liên minh châu Âu, Nhật Bản hay Trung