và không có phiếu chống) mà không gây một mối bất hòa trong
PAP. Mặt khác, viên chủ tịch và phó chủ tịch của Nghiệp đoàn
giáo viên tiếng Anh (trong các trường Hoa) thì có thể chống. Họ
cho đó là “một mẩu ra vẻ đoan trang thuộc địa vô liêm sỉ” (sic)
và yêu cầu bổ nhiệm một ủy ban khác mà trong đó gồm những
thành viên am hiểu sâu sắc nền giáo dục Hoa. Tôi bỏ qua lời
tuyên bố này. Những giáo viên dạy tiếng Anh trong các trường
Hoa – kém chuyên môn và lương thấp – đều có xu hướng
khuynh tả như những giáo viên dạy tiếng Hoa vậy.
MCP lo lắng về kỷ luật mà chính phủ áp đặt vào các trường
Hoa. Họ sợ rằng nó sẽ ngăn cản các học sinh khỏi việc “bị phe
nhóm chính trị lạm dụng để lật đổ một cách phi pháp chính phủ
được thành lập hợp pháp”. Tệ hại hơn, tiếng Anh sẽ mở ra cho
chúng một thế giới hoàn toàn khác thông qua báo chí, văn
chương và phim ảnh. Chúng sẽ nhìn thế giới bằng hai con mắt,
với cái nhìn bình thường, thay vì chỉ nhìn một mắt qua kính
viễn vọng của người Hoa. Tôi phải chiếm một vị trí mà nó sẽ
không để tôi bị lên án như một người Hoa mất gốc. Nếu như tôi
đi một bước sai lầm trong vấn đề này, tôi sẽ bỏ lỡ cơ hội. Nếu họ
có thể chứng tỏ rằng tôi thích dùng tiếng Anh hơn là tiếng Hoa
làm phương tiện giảng dạy chủ yếu trong nhà trường, thì tôi
không thể duy trì mối quan hệ và ủng hộ của khối người nói
tiếng Hoa.
Giữa năm 1955, tôi gởi Loong, lúc đó mới ba tuổi rưỡi, đến
trường mẫu giáo Nanyang, nơi dạy tiếng Hoa. Sau đó khi tôi đến
thăm trường với ủy ban liên trường, báo chí Hoa đăng một tấm
hình của nó trong lớp mẫu giáo, khiến mọi người đều biết rằng
nó đang được giáo dục bằng tiếng Hoa. Việc quyết định rằng ba
đứa con của tôi phải được dạy dỗ trong ngôn ngữ và văn hóa của
tổ tiên chúng đã khiến cho tôi đạt một sự tín nhiệm không bao