đương đầu với bất cứ tình trạng khẩn cấp nào ở Borneo. Tình
hình trở nên ngày càng xấu đi.
Ngày 31/5, Thủ tướng Nhật mời Tunku và Tổng thống
Sukarno họp ở Tokyo. Hội nghị thượng đỉnh này kết thúc bằng
việc tái xác nhận lòng trung thành với Hiệp ước Hữu nghị giữa
hai nước được ký kết năm 1959, cam kết sẽ giải quyết những bất
đồng trong tinh thần thiện chí và hữu nghị. Tunku thấy an
lòng. Nhưng Sukarno hẳn phải thấy rằng Tunku sợ ông ta.
Riêng tôi nhận thấy nỗi lo sợ trong điệu bộ và giọng nói của
Tunku khi ông ta kể lại cuộc gặp gỡ này với Razak, Ismail, Keng
Swee và tôi ngay sau khi ông ta từ Tokyo trở về.
Cuộc họp thượng đỉnh ở Tokyo dẫn đến cuộc họp các Bộ
trưởng Ngoại giao ở Manila, tại đó Razak thừa nhận rằng các ước
muốn của dân chúng về liên bang Malaysia tương lai cần phải
được thảo luận lại. Nhưng sau khi Tunku ký Thỏa ước Malaysia
hồi tháng 7, Sukarno phản đối nó kịch liệt và kết cho ông ta tội
phản bội lại Hòa ước Manila này. Macapagal cố gắng để hai bên
cùng ngồi vào một cuộc họp khác ở Manila, và kết quả là ngày
6/8 Tunku đồng ý thay đổi ngày thành lập liên bang Malaysia để
có thời gian cho một phái bộ quan sát do Liên Hiệp Quốc chỉ đạo
đi xác định lại xem liệu dân chúng Borneo có muốn hợp nhất
không.
Người Anh nhận thấy họ đành phải đồng ý rằng Indonesia,
Philippine và Anh phải chọn những quan sát viên để giám sát
công việc của phái bộ này, nhưng Sandys lại giận dữ. Ông ta ép
Tunku chọn một ngày nhất định cho việc thành lập liên bang
Malaysia, kiên quyết ngăn chặn mọi sự trì hoãn. Hàng trăm
thanh niên Malay từ Brunei và những người Hoa thân cộng từ
Sarawak đã vượt biên giới để dự những khóa huấn luyện quân
sự trên đất Indonesia, và ông ta không muốn “những quan sát