không hề xấu tới mức chúng tôi không thể thân mật và thoải
mái với nhau, và tôi quyết định giữ mối quan hệ này bền vững.
Bố ông ta đã từng rất tốt với tôi.
Bi kịch của Tan cũng là bi kịch của cả một thế hệ người Hoa
sinh tại Malacca. Họ không hiểu rằng luật chơi tại một Malaya
độc lập – sau là Malaysia – là khác hẳn những gì họ đã quen
thuộc dưới thời người Anh. Người Malay hiện là những kẻ cai trị.
Họ cảm thấy bất an vì họ tin họ không thể cạnh tranh bình đẳng
với người Hoa và người Ấn. Vì thế họ quyết định củng cố quyền
lực đang nắm được bất chấp có công bằng hay không đối với các
chủng tộc khác, và người Hoa và người Ấn càng cố chiếm đủ
không gian sinh tồn cho chính họ bao nhiêu, thì người Malay
càng thấy đó như một thách thức đối với vị trí thống trị của họ
bấy nhiêu, và họ càng thấy bất an hơn. Tan hoàn toàn không
nhạy cảm với điều đó, như hầu hết những người Hoa sinh tại
Malacca. Trái lại, giới thương nhân nói tiếng Hoa nhanh chóng
nhận ra mối nguy hiểm trong tình hình mới này. Họ đã bắt đầu
cảm thấy áp lực, xuất phát từ cảm giác bất an hơn là từ một
khao khát nào đó muốn tiêu diệt nền văn hóa của người Hoa,
các lãnh tụ Malay đang áp đặt một chính sách giáo dục được trù
tính để thúc ép và giảm thiểu việc học tiếng Hoa và việc truyền
bá văn hóa Trung Quốc thông qua các trường Hoa của họ.
Người Ấn ở Malaysia, như anh em của Raja ở Serembang,
cũng bồn chồn như thế về tương lai bởi vì tiếng Anh đang bị
thay thế dần bằng tiếng Malay. Họ biết mình là khối thiểu số và
chẳng có cơ hội đạt được quyền lực, và sẵn sàng vui lòng hòa
hợp với bất kỳ phe nhóm nào chấp nhận cho họ có chỗ sống còn
và tiến thân, nhưng họ cũng sợ hãi trước những đổi thay có thể
tước đi khỏi tay con cái họ một nền giáo dục tốt và những triển
vọng công bằng. Họ đang mất dần thế độc quyền làm việc trong