sạch hiềm nghi. Nhưng trên thực tế có đúng như thế không? Ở đây liệu có
điểm mù nào không?
Tôi trình bày với Ushikoshi đủ bốn vấn đề như vậy, và giấu đi sự thật rằng
tôi còn tính đến những tình huống hoang đường hơn, xa xôi hơn. Án mạng
của phòng 14, và nhất là phòng 13, về lý mà nói là tuyệt đối không thực hiện
được, không ai xâm nhập vào đó mà giết người được. Vì thế, liệu có khả
năng nào là qua lỗ thông hơi trên tường, hung thủ đã len lén phát một hình
ảnh hoặc một âm thanh rùng rợn đến nỗi nạn nhân hoảng loạn phải tự cầm
dao đâm mình?
Song, khả năng này dĩ nhiên không tồn tại. Cảnh sát đã dỡ cả tường cả
trần cả đường ống ra lục lạo kĩ càng, không tìm thấy máy chiếu hay máy
phát thanh nào, mà ngay cả các thiết bị điện hoặc máy móc tương tự cũng
không có.
Mùng 3 tháng Giêng, những người làm công ăn lương bắt đầu đi làm trở
lại. Buổi sáng có năm sáu người công nhân đến, xây đắp lại các phần tường
và trần mà cảnh sát đã bới khoét tung tóe. Cửa phòng 10 được sửa từ trước,
nhưng phòng 13 và 14 đến lúc này mới được khôi phục nguyên trạng. Bởi
vậy từ ngày mùng 3, cuối cùng tôi và Kiyoshi cũng được phép dọn đến
phòng nghỉ đúng nghĩa, là phòng 13.
Tiếp đó, vào tầm trưa cùng ngày, một viên cảnh sát đem gửi trả nguyên
vẹn cái đầu của Golem, Kiyoshi cảm ơn rồi mang lên lắp vào thân thể ở
phòng 3, lại đội cho nó cái mũ.
Nhóm Ushikoshi chăm chú nghe viên cảnh sát nọ báo cáo kết quả khám
nghiệm các vật chứng, nhưng nội dung chẳng có gì khởi sắc. Dao leo núi,
thừng, dây, toàn là những món đồ mà ra bất cứ hiệu tạp hóa nào cũng có thể
mua được, kết quả thế này là tất nhiên thôi.
Chiều đến, thời tiết xấu đi, tuyết bay tơi bời ngoài cửa sổ. Đến 2 giờ
chiều, bên trong Lưu Băng Quán đã tối om như lúc nhá nhem, xem ra đêm
nay sẽ có bão tuyết. Vở kịch giết người diễn ra ở ngôi nhà quái dị nơi cực
Bắc sắp bước lên một cao trào khó tưởng tượng.