nhiệm kỳ mà ông ấy để lại.
Người vào vị trí đó phải được bầu xong
trước tháng Mười Một. Với tầm ảnh hưởng của mình trong Đảng Cộng
hòa, Howard là một lựa chọn rất hiển nhiên. Nhưng ông là một kẻ quá
khích, một Đông-ki-sốt thích chiến đấu với cối xay gió và không chịu
thỏa hiệp trước các vấn đề thuộc về chuẩn mực đạo đức thông thường
nhất, lại còn mang tiếng không trung thành với đảng vì không ủng hộ
Eisenhower. Thay vào đó, hội nghị bất thường đã bầu Roman Hruska,
một thượng nghị sĩ rất được yêu thích, người được bầu bổ sung vào chiếc
ghế khuyết của Howard khi ông rời văn phòng. Howard và Leila lập tức
quay trở lại Lincohn và nộp đơn khởi kiện tại Tối cao Pháp viện với yêu
cầu Đảng Cộng hòa phải nhận hồ sơ ứng cử của ông. Nhưng hai mươi
bốn giờ sau, họ bãi nại.
Warren giận dữ khi nghe tin về Roman Hruska. “Họ cắt ngang cổ cha tôi
từ tai này sang tai kia,” ông nói. Tại sao Đảng Cộng hòa lại có thể đền
đáp hàng chục năm cống hiến của Howard bằng cách này?
Ở tuổi 51, Howard bỗng nhận ra rằng tương lai của ông đang biến mất.
Khi cơn giận đi qua thì sự phiền muộn của ông cũng trỗi dậy. Cho đến
giờ phút này, một chính trị gia kỳ cựu của Đảng Cộng hòa như ông vẫn
còn có một vai trò quan trọng, nhưng ông đã bị loại ra khỏi vũ đài, nơi
ông luôn xem là trọng tâm của cuộc đời ông, nơi ông cảm thấy rằng
mình là người hữu ích nhất trên thế gian này. Ông cố tìm một chân giảng
dạy tại Đại học Omaha, nơi gia đình ông cảm thấy thích hợp để ông
truyền đạt những kinh nghiệm mà ông thụ đắc được từ kinh doanh và từ
quãng thời gian ông làm nghị sĩ trong Hạ viện Hoa Kỳ. Nhưng ông là
một người lập dị đến mức cho rằng trường này sẽ không chịu thuê ông,
dù chính con trai ông đang giảng dạy tại đó và Doc Thompson là Trưởng
khoa Mỹ thuật và Khoa học. Ông quyết định quay trở lại làm việc tại
Buffett-Falk. Cuối cùng, ông tìm được chân giảng viên bán thời gian tại
trường Cao đẳng Midland Lutheran, cách Omaha 30 dặm.
Cả gia
đình ông cố che giấu những nỗi thất vọng cay đắng về giới chức địa
phương, là nguyên nhân đã đẩy Howard ra khỏi Omaha.