cung cấp tem phiếu thực phẩm, họ nên có các cổ phiếu và trái
phiếu có thể sản sinh ra cổ tức.”
Ông viết: “ Peter Kiewit đã ký thác những khoản tiền lớn trong
ngân hàng xã hội… nhưng chỉ rút ra những khoản tiền nhỏ.” Kiewit
chỉ dành 5% tài sản của mình cho gia đình. Phần còn lại ông đóng
góp vào một quỹ từ thiện vì lợi ích của những con người tại các vùng
mà ông đã sống, cũng giống hệt như những việc ông đã làm đối
với họ lúc sinh thời. Nhân viên của ông tiếp tục nắm quyền sở hữu
phần lớn công ty sau khi ông qua đời và Kiewit đã qui định trước
rằng họ chỉ có thể sang nhượng cổ phần cho nhau mà không được
bán ra bên ngoài. “Peter Kiewit không thể phụng sự cộng đồng của
mình tốt hơn thế.” Buffett kết luận.
Trong số các nhà từ thiện, Buffett còn ngưỡng mộ “Vua Thép”
Andrew Carnegie và “Vua Dầu hỏa” John D. Rockerfeller như
những nhà tư tưởng đúng nghĩa. Carnegie đã xây dựng các thư viện
công cộng tại những vùng nghèo khó trên khắp nước Mỹ. Quỹ
Carnegie đã cử Abraham Flexner làm phái viên nghiên cứu vấn đề
đào tạo nhân lực ngành y tại Mỹ.
Khi Đề án 1910 của ông gây ra
một vụ xì-căng-đan cấp quốc gia vì vén màn thực trạng tồi tệ
trong các trường y, Flexner đã thuyết phục Quỹ Rockerfeller ủng hộ
một khoản tiền lớn đủ để làm cuộc cách mạng trong ngành đào tạo y
khoa. Rockerfeller cũng muốn khắc phục việc thiếu một định chế
rõ ràng đối với hoạt động tài trợ hướng về con người. Ông nhận ra
rằng các trường cao đẳng dành cho sinh viên da đen vì thiếu một
hội cựu sinh viên mạnh về tài chính mà không có cách nào để tự cải
thiện mình. “Thực ra, John D. Rockerfeller đã trở thành nhà bảo trợ
của họ. Ông giải quyết vấn đề đó mà không hề quan tâm rằng
trường nào là tiêu biểu nhất trong số họ, và ông giúp đỡ họ trở
thành những trường thành công nhất.” Buffett nói.