đông. “Phải có một người nào đó nhận công việc này,” ông nói nhanh
ngay sau đó. “và tôi là người phù hợp nhất.” Ngoài những người
đang từ chức, không một ai đang bị đe dọa hơn. Nhưng đó không phải
chỉ vì tiền, đó còn là cái mà ông rất quan tâm: uy tín của ông. Khi
ông đầu tư vào Salomon và cho Gutfreund lá phiếu tán thành của
ông, điều đó cũng giống như ông đã đóng đinh uy tín của mình và
cánh cửa của Salomon như một tấm khiên.
Buffett từng nói với các con của mình rằng: “Cần cả đời để tạo ra
danh tiếng, nhưng chỉ cần năm phút là có thể hủy hoại nó hoàn
toàn.” Ông nghĩ về rủi ro đó chủ yếu dưới dạng các hành động của
ông. Tuy nhiên những người ông từng tán thành cho họ đã đặt uy tín
của ông vào vòng nguy hiểm. Nếu ông có phạm lỗi, thì đó là do ông
đã đầu tư vào Wall Street mà tự tách mình ra xa nó và lại cậy nhờ
vào người khác. Đánh giá của ông về năng lực của Gutfreund trong
việc điều hành nền văn hóa trốn tránh trách nhiệm của Salomon
quả là có vết nứt.
Vào lúc này, Buffett đã là người giàu thứ hai tại Mỹ.
Giá trị cổ
phiếu trên sổ sách của Berkshire Hathaway đã liên tục tăng hơn
23% mỗi năm trong vòng 26 năm qua. Nhóm các nhà đầu tư đầu
tiên của ông đã có mỗi người một tài sản lên đến 3 tỉ đô la cho mỗi
1.000 đô la họ đã bỏ ra đầu tư với ông từ những ngày đầu.
Berkshire Hathaway đang được giao dịch ở mức 8.000 đô la mỗi cổ
phiếu. Buffett có tài sản ròng là 3,8 tỉ đô la và là một trong những
doanh nhân được kính trọng nhất trên thế giới.
Có lẽ một lúc nào đó trong cái ngày thứ Sáu dài dằng dặc và kinh
hoàng đó, Buffett đã choáng váng nhận ra rằng việc đầu tư vào
Salomon, một công ty có quá nhiều rắc rối mà ông hầu như
không thể kiểm soát được gì, ngay từ đầu đã đặt tất cả mọi thứ vào
nguy hiểm.