HỒNG LÂU MỘNG - Trang 1268

bời, tuy có Nghênh Xuân, Tích Xuân, nhưng không hợp ý cho lắm. Vì thế Đại Ngọc chỉ
còn trơ có một mình Tương Vân là thường hay đến an ủi:
Chị là người hiểu đời, tại sao chị cứ hay chuốc lấy những điều khổ não vào người? Cảnh
ngộ của em cũng như chị, nhưng em không có bụng dạ hẹp hòi. Chị hay ốm luôn sao
không biết giữ gìn thân thể. Đáng giận thay chị em cô Bảo hàng ngày chầm bập thân
thiết, đã bảo là tiết Trung Thu năm nay thế nào cũng phải họp nhau lại thưởng trăng, mở
thi xã, nối vần làm thơ. Thế mà cô ta bỏ rơi chúng ta, thưởng trăng một mình, thi xã
không mở, thơ cũng chẳng làm, tha hồ cho cha con, chú cháu thỏa thích tung hoành. Chị
cũng biết đấy, vua Tống Thái Tổ nói rất hay: “Nhẽ nào lại để người khác ngủ say bên
cạnh giường nằm của mình”. Bọn họ không đến, hai chúng ta cứ làm thơ nối vần với
nhau, để sau này cho họ xấu hổ một bữa!
Đại Ngọc không nỡ phụ lòng hào hứng của Tương Vân, liền cười nói:
Cô xem họ làm ồn ào như thế, còn có thi hứng gì nữa!
Thưởng trăng ở trên núi tuy thích thật, nhưng không bằng thưởng trăng ở gần nước. Chị
nên biết dưới sườn núi này đều là ao cả. Trong khe núi có một ngôi nhà gần nước gọi là
Ao Tinh quán

130

. Thế mới biết khi trước mở cái vườn này có nhiều ý nghĩa. Nơi cao

nhất trên núi gọi là Đột Bích, chỗ thấp gần nước gọi là Ao Tinh. Hai chữ “đột” “ao” (lồi
lõm) người ta dùng rất ít, bây giờ đặt tên cho ngôi nhà, thực là mới lạ, không chịu rập
theo lối cũ. Trong hai chỗ này, trên dưới, sáng tối, cao thấp, non nước, cốt đặt ra để làm
chỗ thưởng trăng. Ai thích núi cao trăng nhỏ thì đến chỗ này, ai thích trăng sáng nước
trong thì đến chỗ kia. Người ta thường đọc hai chữ này là “oa” “cũng” (cao trũng), kể
cũng hơi tục, nên ít dùng. Chỉ có Lục Phóng Ông là dùng chữ “ao” thôi. Tức là câu “Cổ

nghiễn vi ao tụ mặc đa”

131

.

Thế mà có người chê ông ta là tục, có đáng buồn cười không?

Đại Ngọc nói:
Chẳng cứ một mình Lục Phóng Ông, người xưa dùng chữ ấy rất nhiều. Như bài “Phú
thanh đài” của Giang Yêm; “Kinh thần dị” của Đông Phương Sóc

132

cho đến bài “họa

ký” nói về việc ông Trương Tăng Do

133

vẽ chùa Nhất Thặng không kể xiết được. Người

đời không biết, nhận lầm là dùng chữ tục đấy thôi. Tôi nói thực với cô: hai chữ này là tôi
đặt ra đấy. Năm nọ thử tài Bảo Ngọc, bắt anh ấy phải nghĩ mấy chỗ: có chỗ nghĩ ra, có
chỗ phải bỏ, có chỗ chưa nghĩ được. Sau này chỗ nào chưa có tên, chúng tôi đều nghĩ và
ghi rõ xuất xứ, đưa cho chị Cả xem. Chị Cả bảo đưa cho cậu tôi. Cậu tôi xem xong rất
mừng nói: “Biết thế này bảo chị em chúng nó nghĩ cho cả, chẳng thú hay sao?” Những
chữ tôi nghĩ đều lấy cả, không bỏ một chữ nào. Bây giờ chúng ta đến Ao Tinh quán đi.
Hai người cùng xuống dốc núi, đi quanh một vòng thì đến nơi. Trên bờ ao có một hàng
rào trúc liền nhau thông ra con đường đi sang Ngẫu Hương tạ, ở đó nhà cửa có ít, vừa
thấp vừa hẹp, chỉ có hai bà già canh đêm. Biết mọi người đương thưởng trăng ở Đột
Bích, không can gì đến họ, nên họ đưa bánh trái và rượu thưởng ra uống say túy lúy rồi
tắt đèn đi ngủ. Đại Ngọc, Tương Vân thấy tắt đèn, đều cười nói:
Họ đi ngủ cả, thế càng tốt, chúng ta ở ngay dưới mái cỏ này thưởng trăng dưới nước có
được không?
Hai người ngồi xuống hai cái ghế tre. Một vầng trăng tỏ trên trời, một bóng trăng long
lanh dưới nước, trên dưới đua sáng như đặt mình trong cung thủy tinh nhà Giao Thất vậy.
Gió nhẹ lướt qua, sóng biếc lăn tăn gợn trên mặt nước, khiến người ta khoan khoái nhẹ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.