cậu tôi, hạng quạt ấy làm bằng loại trúc Tương phi
và ngọn trúc… lại đều có nét vẽ và
chữ đề của người xưa. Cậu tôi về trình, ông tôi liền bảo đi mua, hết bao nhiêu tiền cũng
trả cho nó. Nhưng thằng “ngốc đá” nói: “Tôi thà chết đói chết rét, chứ một nghìn lạng bạc
một cái, cũng không bán”. Ông tôi không biết làm thế nào, ngày nào cũng cứ mắng cậu
tôi là không làm được việc gì. Cậu ấy đã hứa đưa trước cho nó năm trăm lạng bạc, sau
mới lấy quạt, nhưng nó nhất định không bán, chỉ nói: “Muốn lấy quạt thì hãy giết tôi
trước đã!” Cô thử nghĩ xem còn có cách gì nữa không? Ngờ đâu lão Vũ Thôn là hạng
không có lương tâm, nghe thấy thế, liền bày mưu vu cho nó thiếu tiền công, bắt nó đến
cửa quan, bảo: Mày thiếu tiền công, phải bán gia tài để nộp. Rồi tịch thu số quạt, tính
thành quan giá, mang đi! Hiện giờ thằng “ngốc đá” không biết còn sống hay chết. Ông tôi
mới hỏi cậu tôi: “Sao người ta lại lấy được về đây?” Cậu ấy chỉ nói có một câu: “Vì một
việc nhỏ làm người ta khuynh gia bại sản cũng không phải là giỏi”. Ông tôi nổi giận, bảo
là cậu ấy đem lời chẹn họng ông tôi. Đó là việc lớn thứ nhất. Mấy ngày sau, lại có mấy
việc nhỏ nữa, tôi không nhớ hết; vì thế ông tôi góp cả tội lại, đánh cậu tôi một trận.
Chẳng biết đánh đấm thế nào, không đánh bằng roi, bằng vọt, bạ cái gì ông tôi đánh cái
ấy, làm mặt cậu tôi bị toạc hai chỗ. Thấy nói bên bà dì có một thứ thuốc chữa khỏi vết
đòn, nên đến nhờ cô tìm hộ cho tôi xin một viên.
Bảo Thoa sai Oanh Nhi lấy hai viên thuốc đưa cho Bình Nhi, rồi nói:
Như thế tôi không sang nữa, nhờ chị về nói hộ, tôi gửi lời hỏi thăm. Bình Nhi nhận lời rồi
về.
Hương Lăng đi chào mọi người xong, về nhà ăn cơm chiều. Ăn xong, bọn Bảo Thoa đến
cả đằng Giả mẫu, Hương Lăng liền sang quán Tiêu Tương. Bấy giờ Đại Ngọc đã đỡ
nhiều rồi, thấy Hương Lăng vào ở trong vườn, tự nhiên cũng vui thêm. Hương Lăng cười
nói:
Em sang ở đây, lúc nào rỗi, đến nhờ cô dạy làm thơ thì phúc cho em lắm.
Đại Ngọc cười nói:
Chị đã muốn làm thơ thì phải gọi tôi bằng thầy. Tôi không giỏi, cũng dạy nổi chị.
Nếu thực thế, em xin gọi cô là thầy, xin cô đừng ngại.
Làm thơ có gì khó mà phải học? Chẳng qua chỉ có khai, thừa, chuyển, hợp, trong đó thừa
và chuyển đều là hai vế đối nhau, chữ bằng đối với chữ trắc, hư đối với hư, thực đối với
thực. Nếu được câu hay khác thường thì bằng trắc hư thực không cần phải đối nhau cũng
được.
Thảo nào khi rảnh, em thường lấy quyển thơ cũ ra xem mấy bài, có câu đối nhau rất
chỉnh, có câu lại không đối. Lại nghe người ta nói, các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm
không cần, chỉ có các chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu là phải rõ ràng. Xem thơ của cổ nhân,
có khi đúng như thế, có khi những chữ thứ hai, thứ tư, thứ sáu lại không thế. Vì vậy lúc
nào em cũng lấy làm ngờ. Bây giờ cô nói, thì ra khuôn phép ấy không cần lắm, chỉ cần
lời và câu văn cho mới lạ là hay thôi.
Đúng đấy. Nhưng lời và câu văn là việc phù du, cần nhất phải đặt từ cho sát. Nếu từ sát
thực thì lời và câu văn không cần điêu luyện cũng vẫn hay. Như thế gọi là: “Không nên
lấy lời hại ý”.
Em chỉ thích câu thơ của Lục Phóng Ông
,
lời rất thiết thực: