Hưng-đạo vương tự khi phụng mệnh đổng nhung, thu xếp thuyền bè,
khí giới, dần dần đã đủ. Qua sang tháng tám năm Giáp-thân, truyền hịch
cho các vương hầu, hội hết quân-sĩ tại bến Đông-bộ-đầu để điểm duyệt.
Các vương hầu ai nấy dẫn quân bản bộ đến hội, kẻ năm ba nghìn, người
một vài vạn, quân thủy, quân bộ lục tục kéo đến bờ sông.
Cạnh bờ sông lập một chòi cao hai từng. Trước chòi dựng một lá cờ
thêu sáu chữ Súy. Trên chòi dàn cắm cờ tiết-mao, lưỡi phủ-việt. Ở giữa đặt
một hòn ấn, và một thanh thần-kiếm, một lá cờ lịnh. Từng dưới dàn cắm
qua, mâu, thương, kinh, cờ ngũ-hành, cờ tứ-phương, cờ bát-quái.
Sáng hôm sau, các vương hầu hội tại trên chòi. Hưng-đạo vương ngồi
giữa, hai bên hơn 100 tay đao-phủ đứng lưỡng-dực ; vương hầu theo ngôi
thứ ngồi ra hai hàng. Các tướng-sĩ dàn ra hai bên vệ đường, người nào
người nấy, đại nịt chỉnh tề, khí giới sáng quắc. Dưới sông dàn một rẫy
chiến-thuyền, mỗi chiếc thuyền cắm một lá cờ đỏ trên mũi.
Trên bộ thì quân mã ở trước, quân bộ ở sau, cuối cùng đến các xe lương
thảo, cả thảy quân thủy, bộ hơn 20 vạn quân.
Trên chòi nổi ba hồi trống, Hưng-đạo vương xuống chòi, cưỡi ngựa diễu
quanh một lượt, xem xét các cơ các đội, cho đến thuyền bè dưới sông đâu
đấy, rồi nổi ba hiệu súng, cơ nào đội ấy, kéo đi diễu vòng quanh một hồi,
chiêng trống vang giời, tinh kỳ rợp đất. Ở dưới sông thì chiến thuyền chèo
đi một lượt, lượn đi lượn lại, cờ bay phấp phới, thuyền tựa lá tre.
Trong vài giờ đồng hồ, hồi chiêng thu quân, lại đâu về đấy như cũ.
Hưng-đạo vương truyền lịnh cho các vương hầu và các tướng sĩ rằng:
- Bản-chức phụng mệnh thống đốc quân sĩ ra phá giặc. Các vương hầu
và các tướng sĩ, ai nấy phải cẩn giữ phép tắc, đi đến đâu không được nhiễu
dân, và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ