đáp hai là được rồi.”
Ông lão run run không đứng dậy nổi, hoà thượng Vô Bi Tự đến gần, cho
lão một cái ghế, để lão ngồi xuống, nhưng lão rất sợ, mới đặt mông xuống
một nửa, đã co lại rất nhỏ.
Mộc Yên Ly mở miệng nói: “Hai câu hỏi đầu tiên. Tiên sinh là người ở
đâu? Làm nghề gì?”
Răng ông lão run lên, vừa mở miệng, tiếng đã run rẩy: “Ta… Ta từ Tương
tới, làm… Làm đèn lồng ven đường…”
Mọi người cực kỳ tò mò mà xem xét lão, tóc bạc thưa thớt, tới đôi giày nát.
Bọn họ không biết ông lão bán đèn lồng ven đường này có thể vạch trần ra
chuyện gì.
Mộc Yên Ly hỏi: “Tiên sinh đã bán đèn lồng, bán bao năm rồi?”
“Hơn nửa đời… Trên năm mươi năm, không nhớ rõ…”
“Đủ lâu rồi, ta không hỏi ông chuyện xa tới năm mươi năm đâu.”
Ông lão ngẩng đầu nhìn qua Mặc Nhiên, thấy người này cao lớn anh đĩnh,
khí hoa thần lưu, không dám nhìn nhiều, lập tức rời mắt đi. Qua hồi lâu,
mới do dự trộm ngó hắn, ngó ngó lại ngập ngừng nói: “Không có quen.”
Mộc Yên Ly nói: “Không quen cũng chẳng lạ, ta đây lại hỏi ông, khi ông
bán đèn ở Tương Đàm Túy Ngọc xưa, có phải luôn có một đứa trẻ, thích
đứng bên sạp ông ngắm đèn lồng không?”
“A…” Hai mắt ông lão vẩn đục, nói chuyện lại rõ ràng, ông thở dài gật đầu,
“Đúng vậy, có đứa trẻ như vậy, cơ hồ tối nào cũng đến ngắm, nó thích lồng
đèn ta làm, nhưng mà nghèo, không mua nổi… Khi đó ta còn mắng nó mấy
câu, nó cũng không hé răng, lá gan rất nhỏ.”
“Tiên sinh còn nhớ tên nó không?”
“Ừm… Hình như là Mặc… Mặc Nhiên Nhi?”
Mọi người nãy còn ngưng thần nghe ông lão kể chuyện, lúc này, tầm mắt
đều đặt hết lên người Mặc Nhiên.
Ông lão đang chìm vào hồi ức xưa, lẩm bẩm nói: “Không biết có “Nhi”
không, ta cũng không nhớ rõ lắm. Chỉ biết nó là người của Túy Ngọc
Lâu…”