nó thật buồn. Bỗng hai con két cùng lúc cất lên tiếng kêu két... két...
Tôi theo chú Sáu về đồng. Đến nhà, chú Sáu treo lồng két lên cành cây ổi.
Chú quấn vào chân két một vòng dây thép rồi trở vào nhà. Đến khi trở ra,
chú bỗng kêu lên:
- Con két đâu rồi?
Mấy thanh đang bằng dây mây đã bị mỏ két xé vụn và bẽ gãy từ lúc nào.
Tôi nhìn lên ngọn cây ổi, thấy con két đứng nghiêng mắt nhìn ra bầu trời.
Lát sau con két vụt bay vào khoảng không.
Năm ngày sau, chú Sáu tôi quyết định mua con két khác để chơi Tết. Ra
đầu ngõ chợ vẫn bà cụ Roong ngồi bên chiếc lồng.
Chú Sáu nhìn vào lồng thấy bốn con két đứng giao mỏ im lặng. Chú xem đi
xem lại, rồi bất ngờ "ủa" một tiếng. Chú Sáu lại nhìn bà cụ nghi ngờ. Bà cụ
Roong nhìn lại chú Sáu, giọng bà trầm trầm.
- Con két của chú đó. Tôi biết thế nào chú cũng trở lại đây mà.
Chú Sáu ngạc nhiên.
- Sao lại thế hở cụ?
Bà cụ Roong giọng buồn buồn:
- Két đảo sống có đôi, bắt một con đi sao được.
Chú Sáu chưa hết nghi ngờ:
- Lần này cháu mua một con nữa:
Bàn tay bà cụ thật khéo léo mở chiếc vòng thép trong chân con két ra, rồi
quấn hai chiếc vòng bằng một thứ rễ cây màu lam vào chân hai con két. Bà
cụ nói:
- Hai chiếc vòng rễ cây này để chúng luôn sống bên nhau, chú mua thì cứ
mua nhưng rồi hai đứa nó lại trở về quê đảo của nó thôi.
Bà cụ bắt hai con két đứng trên hai vai chú Sáu, rồi mím môi hà hơi vào hai
chiếc mỏ két. Hình như hai con két hiểu, đầu gật gật.
Một năm sau, cũng đúng vào độ Tết, chú Sáu về làng Cọp Râu Trắng báo
cho ba má tôi biết đôi két đảo đã bay đi đúng như lời bà cụ Roong đã nói
trước.