Theo kế hoạch, Hải quân Mỹ có nhiệm vụ ngăn chặn từ ngoài khơi. Hải
quân nguỵ có nhiệm vụ tuần tiễu ven bờ. Nhiệm vụ này được giao cho đơn
vị đặc nhiệm có tên là 115 phụ trách. Lực lượng này gồm 7 khu trục hộ vệ,
hai tầu quét mìn, hai tầu đổ bộ chiến xa, 17 tầu ven bờ. Số tầu trên rút ra từ
lực lượng phòng vệ ven biển của Mỹ. Đến tháng 7 năm 1965, chúng tăng
lên 54 chiếc, bố trí ở Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh, Vũng Tầu, An Thới.
Lực lượng này còn có 5 máy bay trinh sát chiến thuật để cảnh giới ven bờ
(Việc cảnh giới ngoài khơi do máy bay hạm đội 7 của Mỹ phụ trách). Từ vĩ
tuyến 17 đến vịnh Thái Lan, chúng dùng máy bay có thiết bị phát hiện điện
tử để trinh sát. Việc giám sát ở các cửa sông vùng châu thổ sông Cửu Long
do máy bay và trực thăng ở các căn cứ Cam Ranh, Vũng Tầu đảm nhiệm.
Đến tháng 9 năm 1965, Mỹ tăng cường thêm 5 tầu tuần tiễu ngoài khơi, 30
tầu tuần tiễu trên sông và 9 tầu tuần tiễu ven bờ.
Ngoài ra còn có hàng chục trạm ra đa quan sát ven bờ, trên các đảo và một
mạng lưới thông tin viễn thông hiện đại.
Hải quân Sài Gòn được gấp rút xây dựng. Nếu năm 1956- 1957, hải quân
nguỵ chỉ có 1900 sỹ quan và binh lính với 100 chiếc tầu, chủ yếu của Pháp
giao lại, thì năm 1963, quân số Hải quân nguỵ lên đến 6200 tên, được trang
bị 258 tầu, trong đó có 50 tầu chiến đấu và 208 tầu đổ bộ. Năm 1965, quân
số đó lên đến 10 ngàn tên và được Mỹ tăng cường 1000 tầu chiến đủ loại.
Mỹ tuyên bố sẽ xây dựng Hải quân Việt Nam cộng hòa vào loại “mạnh thứ
ba thế giới(!)”. Bên cạnh lực lượng tại chỗ là lực lượng cơ động trên biển,
trên sông. Chúng lập ra lính thủy đánh bộ, các liên đoàn tuần giang, lực
lượng tuần thám...
Chỉ sau “vụ Vũng Rô” một thời gian ngắn, lực lượng của Mỹ và ngụy trên
biển đã đông gấp nhiều lần. Máy bay, ra đa và các lực lượng quan sát khác
hoạt động ngày đêm. Vậy mà chúng vẫn không hết lo ngại. Phó đô đốc Hải
quân Ngụy Đỗ Hữu Chí than vãn: “Chiến hạm của Mỹ nhập cuộc rất đông,
xem như vậy kín duyên hải Việt Nam cộng hòa. Thế nhưng cộng sản Bắc
Việt có chịu chùn bước xâm nhập không?” Còn báo chí Mỹ thì nhận xét
rằng cộng sản Bắc Việt có những đội thuyền viên lão luyện, vượt xa Hải
quân Việt Nam cộng hòa hai mươi năm. Họ có thể điều khiển tầu đi trong
bất luận thời tiết nào, địa hình nào.